Giới thiệu về blog

Đây là blog của gia đình Văn Tác và Mai Trâm, được thiết lập nhằm mục đích lưu lại những kỷ niệm đẹp trong đời sống của gia đình bé nhỏ Văn-Mai. Ngoài những hình ảnh và video, blog còn chứa đựng của hồi môn dành riêng cho 3 cô công chúa nhỏ: Mẫn Châu - Hải Ngân và Ái Thi. Của hồi môn này là tập hợp những bài viết hay, có tính nhân văn cao mà Văn Tác đã sưu tầm trong suốt cuộc đời của mình.....

Thứ Ba, 6 tháng 9, 2011

Người Mẹ, câu chuyện của một Tiến sĩ toán học Harvard University

“…Mẹ ít văn hoá, nhưng mẹ nhớ khi nhỏ được thầy giáo dạy là, Golgi có nói một câu: Nghèo đói là trường ĐH tốt nhất. Nếu con có thể tốt nghiệp trường ĐH này, thì những trường ĐH như Thiên Tân, Bắc Kinh con chắc chắn đều đỗ…”.



Ngọn khói bếp dài cất lên từ trên nóc ngôi nhà nông dân cũ nát gia đình tôi. Người mẹ chân thập thễnh của tôi đang nấu mì sợi cho tôi, những bột mì này có được nhờ mẹ đổi năm quả trứng gà cho hàng xóm, chân mẹ bị thương vì mấy hôm trước, để thêm tí tiền cho tôi nhập học, mẹ đẩy một xe chất đầy rau từ thôn ra thị trấn, trên đường bị trật chân.
Bưng bát mì, tôi đã khóc.
Tôi buông đũa quỳ xuống đất, xoa nắn chỗ chân sưng phồng lên to hơn cả cái bánh bao của mẹ, nước mắt rơi xuống đất… Nhà tôi ở Thiên Tân, làng Đại Hữu Đới, huyện Vũ Thanh, tôi có một người mẹ tốt nhất thế gian tên là Lý Diệm Hà.
Nhà tôi vô cùng nghèo khó.
Khi tôi ra đời, bà nội ngã bệnh ngay trên giường sưởi, tôi bốn tuổi, ông nội lại mắc bệnh hẹp khí quản và bán thân bất toại, những món nợ trong nhà lớn dần theo năm.
Khi bảy tuổi, tôi được đi học, học phí là mẹ vay người khác.
Tôi thường đi nhặt những mẩu bút chì bạn bè vứt đi, dùng dây buộc nó lên một cái que rồi viết tiếp, hoặc dùng một cái dây chun xoá sạch những cuốn vở bài tập đã viết, rồi viết lại lên đó, mẹ thương tôi đến mức, cũng có lúc đi vay vài hào của hàng xóm để mua vở và bút chì cho tôi.
Nhưng cũng có những khi mẹ vui vẻ, là khi bất kể bài kiểm tra nhỏ hay kỳ thi lớn, tôi luôn đứng đầu, toán thường được 100/100 điểm. Dưới sự khích lệ của mẹ, tôi càng học càng thấy ham thích. Tôi thực sự không hiểu trên đời còn có gì vui sướng hơn được học hành.
Chưa đi học lớp một tôi đã thông thạo cộng trừ nhân chia và phân số, số phần trăm; khi học Tiểu học tôi đã tự học để nắm vững Toán Lý Hoá của bậc Trung học Phổ thông; Khi lên trung học, thành phố Thiên Tân tổ chức kỳ thi vật lý của bậc Trung học, tôi là đứa học trò nông thôn duy nhất của cả năm huyện ngoại thành Thiên Tân được giải, một trong ba người đỗ đầu.
Tháng 6 năm đó, tôi được đặc cách vào thẳng trường Trung học số 1 danh tiếng của Thiên Tân, tôi vui sướng chạy như bay về nhà.
Nào ngờ, khi tôi báo tin vui cho cả nhà, mặt bố mẹ chất chứa toàn những đau khổ; bà nội vừa mất nửa năm, ông nội đang gần kề cái chết, nhà tôi đã mắc nợ tới hơn mười nghìn Nhân dân tệ rồi. Tôi lặng lẽ quay về bàn học, nước mắt như mưa suốt một ngày.
Đến tối, tôi nghe thấy ở ngoài nhà có tiếng ồn ào. Thì ra mẹ tôi đang định dắt con lừa con của nhà đi bán, cho tôi đi học, nhưng ba tôi không chịu.
Tiếng ồn ào làm ông nội nghe thấy, ông đang bệnh nặng, trong lúc buồn bã ông đã lìa đời.
Sau lễ an táng ông nội, nhà tôi lại mắc thêm vài nghìn tệ tiền nợ nữa. Tôi không còn dám nhắc đến việc đi học nữa, tôi cất “Giấy báo nhập học” thật kỹ vào vỏ gối, hàng ngày tôi ra đồng làm việc cùng mẹ.
Sau hai hôm, tôi và ba tôi cùng lúc phát hiện ra: con lừa con biến mất rồi.
Ba tôi sắt mặt lại, hỏi mẹ tôi: “Bà bán con lừa con rồi à? Bà bị thần kinh à? Sau này lấy gì kéo, lương thực hoa màu bà đẩy xe tay nhé, bà tự cõng nhé? Bà bán lừa một hai trăm bạc liệu cho nó học được một học kỳ hay là hai học kỳ?”
Hôm đó mẹ tôi khóc, mẹ tôi dùng một giọng rất dữ dội rất hung dữ để gào lại ba tôi:
“Con cái mình đòi đi học thì có gì sai? Nó thi lên được trường số 1 của thành phố nó là đứa duy nhất của cả huyện này đấy, tôi không thể để cho tiền đồ của nó bị lỡ dở được. Tôi sẽ dùng tay đẩy, dùng lưng vác, để cho nó đi học…”
Cầm sáu trăm tệ mẹ vừa bán lừa, tôi thật sự chỉ muốn quỳ xuống dập đầu trước mẹ. Tôi đã thích được học quá rồi, mà còn học tiếp, thì mẹ sẽ khổ sở bao nhiêu, vất vả bươn chải thêm bao nhiêu?
Mùa thu năm đó tôi quay về nhà lấy áo lạnh, thấy mặt ba tôi vàng như sáp, gầy da bọc xương đang nằm trên giường sưởi. Mẹ bình thản bảo: “Có gì đâu, bị cảm, sắp khỏi rồi”. Ai ngờ, hôm sau tôi xem vỏ lọ thuốc của ba, thì thấy đó là thuốc ngăn ngừa tế bào ung thư phát triển.
Tôi kéo mẹ ra ngoài nhà, khóc hỏi mẹ mọi chuyện là thế nào, mẹ bảo, từ sau khi tôi đi học, ba bắt đầu đi ngoài ra máu, ngày càng nặng lên. Mẹ vay sáu nghìn tệ đưa ba lên Thiên Tân, Bắc Kinh đi khắp nơi, cuối cùng xác định là u nhu ruột bowel polyps, bác sĩ yêu cầu ba phải mổ gấp. Mẹ chuẩn bị đi vay tiền tiếp, nhưng ba kiên quyết không cho. Ông nói, bạn bè họ hàng đã vay khắp lượt rồi, chỉ vay mà không trả thì còn ai muốn cho mình vay nữa!
Hàng xóm kể với tôi: Mẹ dùng một phương pháp nguyên thuỷ và bi tráng nhất để gặt lúa mạch.
Mẹ không đủ sức gánh lúa mạch ra sân kho để tuốt hạt, mẹ cũng không có tiền thuê người giúp, mẹ bèn gặt dần, lúa mạch chín chỗ nào gặt chỗ đó, sau đó dùng xe cải tiến chở về nhà, tối đến mẹ trải một tấm vải nhựa ra sân, dùng hai tay nắm từng nắm lúa mạch đập lên một hòn đá to…
Lúa mạch trồng trên ba mẫu đất của nhà, một mình mẹ làm, mệt đến mức không đứng dậy nổi nữa thì mẹ ngồi xổm xuống cắt, đầu gối quỳ còn chảy máu, đi đường cứ cà nhắc…
Không đợi hàng xóm kể hết, tôi chạy như bay về nhà, khóc to gọi mẹ: “Mẹ, mẹ, con không thể đi học nữa đâu…”. Kết quả, mẹ vẫn tống tôi lên trường.
Tiền sinh hoạt phí mỗi tháng của tôi chỉ 60 đến 80 tệ (tương đương 120-160.000 VND), thật thảm hại nếu so với những người bạn học khác mỗi tháng có 200-240 tệ. Nhưng chỉ mình tôi biết, món tiền nhỏ này mẹ tôi cũng phải tằn tiện lắm, từ ngày đầu tháng đã dành từng hào từng hào, bán từng quả trứng gà, rau xanh lấy từng đồng từng đồng, có lúc dành dụm không đủ đã phải giật tạm vài đôi chục. Mà cha tôi, em trai tôi, dường như chẳng bao giờ có thức ăn, nếu nhà ăn rau cũng chẳng dám xào mỡ, chỉ chan tí nước dưa muối ăn qua bữa.
Mẹ không muốn tôi đói, mỗi tháng mẹ chăm chỉ đi bộ hơn mười cây số mua mì tôm với giá bán buôn. Rồi mỗi cuối tháng, mẹ vất vả cõng một túi nặng lên Thiên Tân thăm tôi. Trong túi ấy ngoài những gói mì tôm ra, còn có nhiều xếp giấy loại mẹ phải đi bộ ra một xưởng in ngoài thị trấn cách nhà 6km để xin cho tôi (đó là giấy để tôi làm nháp toán), cả một chai tương cay rất to, cải bẹ muối thái sợi, và cả một cái tông đơ để cắt tóc. (Cắt tóc nam rẻ nhất Thiên Tân cũng phải 5 tệ, mẹ muốn tôi dành tiền cắt tóc để mua thêm lấy vài cái bánh bao mà ăn).
Tôi là học sinh cấp 3 duy nhất của Thiên Tân đến cả rau ở bếp ăn nhà trường cũng không mua nổi, chỉ có thể mua vài cái bánh bao, mang về ký túc ăn cùng mì sợi khô hoặc chấm với tương ớt, kẹp dưa muối để ăn qua bữa. Tôi cũng là học sinh duy nhất không có giấy kiểm tra, chỉ có thể tận dụng giấy một mặt của xưởng in để viết bài. Tôi là đứa học sinh duy nhất chưa bao giờ dùng xà phòng, khi giặt quần áo tôi thường đi nhà bếp xin ít bột kiềm nấu ăn (alkali – chất kiềm, dùng để hấp bánh bao, làm bánh nướng, làm nước sôđa) là xong. Nhưng tôi chưa bao giờ tự ti, tôi cảm thấy mẹ tôi khổ cực cả đời, như người anh hùng chống lại đói khổ, làm con của người mẹ như thế tôi rất tự hào.
Hồi mới lên Thiên Tân, tiết học tiếng Anh đầu tiên khiến tôi ù cạc. Khi mẹ lên, tôi kể cho mẹ nghe tôi sợ tiếng Anh thế nào, ai ngờ mẹ chỉ cười bảo: “Mẹ chỉ biết con là đứa trẻ con khổ cực nhất, mẹ không thích con kêu khó, vì chịu khổ được thì chả còn gì khó nữa.”
Tôi hơi bị nói lắp, có người bảo, học tiếng Anh đầu tiên cần làm chủ được cái lưỡi của mình, bởi vậy tôi thường kiếm một hòn sỏi ngậm vào miệng mình, rồi gắng đọc tiếng Anh. Hòn sỏi cọ xát vào lưỡi tôi, có lúc máu chảy ra bên mép, nhưng tôi cố gắng để kiên trì.
Nửa năm trôi qua, hòn sỏi nhỏ đã bị mài tròn đi, lưỡi tôi cũng đã nhẵn, tiếng Anh đã thành người giỏi thứ 3 của lớp.
Tôi vô cùng cảm ơn mẹ, lời mẹ khích lệ tôi vượt qua khó khăn lớn trong học tập.
lần đầu tiên tôi được tham gia cuộc thi Olympic tri thức toàn quốc khu vực Thiên Tân, đoạt giải Nhất môn Vật lý và giải Nhì môn Toán học, tôi được đại diện Thiên Tân đi Hàng Châu tham gia Cuộc thi Olympic toàn Trung quốc môn Vật lý.
“Đoạt lấy chiếc Cup giải Nhất toàn Trung quốc tặng mẹ, rồi lên đường dự Olympic Vật lý Thế giới!” Tôi không ngăn được nỗi khao khát trong lòng, tôi viết thư báo cho mẹ tin vui và mơ ước của tôi.
Kết quả, tôi chỉ được giải Nhì, tôi nằm vật ra giường, không ăn không uống.
Dù tôi là người đạt thành tích cao nhất trong đoàn Thiên Tân đi thi, nhưng nếu tính cả những khốn khổ của mẹ tôi vào, thì thành tích này không xứng đáng!
Tôi về trường, các thầy ngồi phân tích nguyên nhân thất bại cho tôi thấy: Tôi những muốn phát triển toàn diện cả Toán Lý Hoá, những mục tiêu của tôi quá nhiều nên sức lực tinh thần tôi phải phân tán rộng. Nếu giờ tôi chỉ chọn một mục tiêu trước mắt là kỳ thi Toán, nhất định tôi thắng.
Tôi cuối cùng đã giành chiến thắng tại kỳ thi Olympic Toán toàn Trung Quốc với điểm số tuyệt đối, lọt vào đội tuyển Quốc gia, cả mười kỳ thi kiểm tra ở đội tuyển tôi đều là người đứng đầu. Với thành tích đó, tôi được sang Argentina tham gia kỳ thi Olympic Toán quốc tế.
Nộp xong phí báo danh, tôi gói những sách vở cần chuẩn bị và tương đậu cay của mẹ lại, chuẩn bị lên đường.
Giáo viên chủ nhiệm và thầy giáo dạy Toán thấy tôi vẫn mặc bộ quần áo thải của người khác cho, những thứ áo quần màu sắc chả đâu vào đâu, kích cỡ khác nhau, bèn mở tủ áo của tôi ra, chỉ vào những áo trấn thủ vá, những áo bông tay đã phải nối hai lần, vạt đã phải chắp ba phân, hỏi tôi:
“Kim Bằng, đây là tất cả quần áo của em ư?”
Tôi chả biết nói sao, vội đáp: “Thầy ơi, em không sợ người khác chê cười! Mẹ em thường bảo, Phúc Hữu Thi Thư Khí Tự Hoa – trong lòng có sách vở tất mặt mũi sáng sủa, em mặc những thứ đồ này đi Mỹ gặp tổng thống Clintơn em cũng chẳng thấy ngượng.”
Olympic Toán học Thế giới lần thứ 38 chính thức khai mạc.
Chúng tôi thi liên tục suốt năm tiếng rưỡi, từ 8 giờ 30 phút sáng tới 2h chiều. Ngày hôm sau công bố kết quả, đầu tiên công bố Huy chương Đồng, tôi không muốn nghe thấy tên mình; Sau đó công bố Huy chương Bạc, cuối cùng, công bố Huy chương Vàng, người đầu tiên, người thứ hai, người thứ ba là tôi.
Tôi khóc lên vì sung sướng, trong lòng tự nói: “Mẹ ơi, con mẹ thành công rồi!”
Tin tôi và một người bạn nữa đoạt Huy chương Vàng kỳ thi Olympic Toán học ngay chiều hôm đó đã được Đài phát thanh Nhân dân Trung ương TQ và Đài truyền hình Trung ương TQ đưa. Ngày 1/8, chúng tôi vinh quang trở về, lễ đón long trọng được Hiệp hội khoa học Trung Quốc và Hội Toán học TQ tổ chức. Khi đó, tôi muốn về nhà, tôi muốn sớm gặp mẹ, tôi muốn chính tay tôi đeo tấm huy chương vàng chói lọi lên cổ mẹ…
Hơn mười giờ đêm tối hôm đó, tôi cuối cùng đã đội trời đêm về đến nhà. Người mở cửa là ba tôi, nhưng người một tay ôm chặt lấy tôi vào ngực trước lại chính là mẹ tôi.
Dưới trời sao vằng vặc, mẹ tôi ôm tôi rất chặt…
Tôi lấy tấm huy chương vàng đeo lên cổ mẹ, khóc một cách nhẹ nhõm và sung sướng.
Trường Trung học số Một của Thiên Tân chật ních người, mẹ được ngồi lên bàn Chủ tịch danh dự cùng với các quan chức Cục giáo dục Thiên Tân và các giáo sư toán học hàng đầu. Hôm đó, tôi đã phát biểu thế này:
“Tôi muốn dùng cả sự sống của tôi để cảm tạ một người, là người mẹ đã sinh và nuôi nấng tôi. Mẹ tôi là một người phụ nữ nông dân bình thường, nhưng những đạo lý mẹ dạy tôi nên người đã khích lệ tôi cả đời. Năm tôi học lớp 10, tôi muốn mua cuốn sách “Đại từ điển Anh-Trung” để học tiếng Anh, mẹ tôi không có tiền, nhưng mẹ vẫn nghĩ cách giúp tôi.
Sau bữa cơm sáng, mẹ tôi mượn một chiếc xe cải tiến, chất một xe rau cải trắng, hai mẹ con tôi đẩy ra chợ huyện cách hơn bốn mươi km bán rau. Đến được chợ đã gần trưa, buổi sáng đó tôi và mẹ chỉ ăn hai bát cháo ngô nấu với khoai lang đỏ, lúc đó bụng đói cồn cào, chỉ mong có ai tới mua cho cả xe rau ngay. Nhưng mẹ vẫn nhẫn nại mặc cả từng bó, cuối cùng bán với giá 1 hào một cân. Hai trăm cân rau đáng lẽ 21 tệ, nhưng người mua chỉ trả 20 tệ.
Có tiền rồi tôi muốn ăn cơm, nhưng mẹ bảo nên đi mua sách trước, đó là việc chính của ngày hôm nay. Chúng tôi đến hiệu sách hỏi, giá sách là 18 tệ 2 hào 5 xu, mua sách rồi còn lại 1 tệ 7 hào 5 xu. Nhưng mẹ chỉ cho tôi 7 hào rưỡi đi mua hai cái bánh bột nướng, một tệ kia còn phải cất đi để dành cho tôi làm học phí. Tuy ăn hết hai cái bánh nướng, nhưng đi bộ tiếp 40km về nhà, tôi vẫn đói tới mức hoa mắt chóng mặt, lúc này tôi mới nhớ ra tôi đã quên không phần cho mẹ ăn một miếng bánh nướng nào, mẹ tôi chịu đói cả ngày, vì tôi mà kéo xe suốt 80km đường xa.
Tôi hối hận tới mức chỉ muốn tát cho mình một cái, nhưng mẹ tôi chỉ bảo: “Mẹ ít văn hoá, nhưng mẹ nhớ khi nhỏ được thầy giáo dạy là, Golgi có nói một câu: Nghèo đói là trường đại học tốt nhất. Nếu con có thể tốt nghiệp trường đại học này, thì những trường đại học như Thiên Tân, Bắc Kinh con chắc chắn đều đỗ.”
Khi mẹ nói thế mẹ không nhìn tôi, mẹ nhìn ra con đường đất xa xôi, cứ như thể con đường đất đó có thể thông tới tận Thiên Tân, đi thẳng tới Bắc Kinh.
Tôi nghe mẹ bảo thế, tôi không thấy đói nữa, chân tôi không mỏi nữa..
Nếu nghèo đói là trường đại học tốt nhất, thì tôi muốn nói rằng, người mẹ nông dân của tôi chính là người thầy giáo giỏi nhất của đời tôi.”
Dưới khán đài, không biết có bao nhiêu đôi mắt đã ướt đẫm, tôi quay về phía người mẹ tóc hoa râm của tôi, cúi người xuống kính cẩn…
TS Thiên Tân

Tấm Gương Do Thái

Sau 2.000 năm nước mất nhà tan, người người ly tán ăn nhờ ở đậu các xứ trên thế giới và thường trực bị sống trong thảm nhục diệt chủng, động lực nào đã thúc đẩy người Do Thái - với trăm ngàn dị biệt giữa họ - không những giành lại được đất tổ quê cha mà còn biến vùng đất khô cằn sỏi đá cũng như sa mạc hoang sơ từ ngàn xưa nơi đó thành một cõi bờ trù phú tân tiến, hồi sinh và thống nhất một ngôn ngữ già như trái đất là cổ ngữ Hébreu thành quốc ngữ?
1/ Dân tộc Do Thái
Thủy tổ người Do Thái và ý thức Do Thái Giáo là Abraham, dân tộc Hébreu , thuộc giòng Sémite. Abraham gốc người xứ Chaldée (Irak ngày nay), theo thân phụ di cư qua đất Canaan. Ông tự nhận được Thượng Đế khải thị cho chọn đất nầy làm nơi định cư lập nghiệp. Tuy nhiên, dân tộc Do Thái chỉ thực sự được gầy dựng kể từ đời thứ tư nhờ một trong 12 người chắt trai của Abraham là Joseph. Bấy giời Joseph làm thượng thư trong triều đình Ai Cập nên toàn thể độ 70 người trong tộc Abraham đều theo Joseph qua Ai Cập sinh sống.
Vào năm 1585 trước CN, một vị Pharaon (vua Ai Cập) khác lên ngôi, không thích người Do Thái, nghi kỵ và bạc đãi bắt cả nhóm của Joseph làm nô dịch. Ý thức thành lập một quốc gia Do Thái phát sinh từ đó.
Gông cùm nô dịch kể trên kéo dài 317 năm mới được Moïse giải phóng. Moïse là một thân vương của Ai Cập, nhưng đứng trước nhục trạng của đồng bào ông, ông cương quyết từ bỏ địa vị cao sang cá nhân, bênh vực và bảo vệ họ.
Vào năm 1266 trước CN, Moïse đưa đồng bào đau khổ của ông di cư về Đất Hứa. Tới núi Sinaï, họ sống vất vưởng cực khổ 40 năm. Truyền rằng chính nơi đây, được khải thị bởi Thượng Đế, Moïse đã cụ thể hoá ý thức tôn giáo nhất thần của Abraham thành Do Thái Giáo, có cơ sở hẳn hòi: Thờ Jahvé, một thượng đế toàn năng, toàn trí, chí nhân, chí công và là người tạo ra trời đất cùng muôn loài.
Thánh Kinh Do Thái (La Torah) di lưu rằng vì thủy tổ loài người, ông Adam và bà Eva, phạm tội ăn trái cấm nên hậu duệ của ông bà phải chịu khổ, song một ngày kia một Đấng Cứu Thế trong tộc Do Thái sẽ ra đời và Ngài sẽ là người hoà giải Jahvé với nhân loại.
Người trong đạo Do Thái tin có linh hồn và linh hồn bất diệt khi thể xác rữa tan. Tín đồ Do Thái giáo phải tin theo Thập Tự Giới như: thờ một Chúa duy nhất, kính trọng cha mẹ, không được cướp của giết người, không được nói dối, phải giữ linh hồn và thể xác trong sạch ... Ngày thứ bảy trong mỗi tuần là ngày Sabbat, tức là ngày thiêng liêng, mọi công việc đều phải đình lại.
Dân tộc Do Thái bắt đầu văn minh và thống nhất từ đời Moïse nhưng nhờ Josué, đời kế tiếp, chiếm được một phần xứ Canaan (Đất Hứa), con cháu Israël mới về đó định cư chính thức. Sau, David chiếm trọn đất Canaan, dựng đô ở Jérusalem, lập một ngôi đền đẹp đẽ cũng lấy tên là Jérusalem (có nghĩa là Đền Bình Trị). Và đến đời con của David là Salomon, quốc gia Do Thái mới toàn thịnh.
Năm 930 trước CN, Salomon băng hà, Israël bị chia làm hai tiểu quốc: Israël ở phía bắc và Judée ở phía nam. Nam bắc tương tàn, rốt cuộc Israël bị Assyrie chiếm mất, Judée lọt vào tay Babylone.
Tới khi Ba Tư (Iran) sang chiếm Babylone, người xứ Judée mới được về lại xứ, xây cất lại đền Jérusalem, tạm sống yên ổn trong hai thế kỹ.
Rồi tới năm 63 trước CN, La Mã chiếm xứ Judée, tàn phá và đổi tên Jérusalem thành Aelia Capitolina, và Israël thành Palestine (tên cũ). Dân tộc Do Thái mất quốc gia và nếm mùi lưu vong và nhục trạng diệt chủng trường kỳ khủng khiếp từ thời đó cho tới năm 1948, tây lịch. 
2/ Bước đường lưu vong
Mới đầu họ tản mác qua Tiểu Á rồi qua Âu Châu, Bắc Phi, Ethiopie, chỉ còn một nhóm nhỏ ở lại trong xứ sống chung với người Ả Rập. Đi tới đâu, thổ dân cũng nhận ra họ, một là vì tôn giáo, hai là vì nét mặt (nhất là sống mũi mỏ vẹt đặc thù của họ), ba là sự đoàn kết, sự thông minh, sự tiến đạt thịnh vượng hơi quá lộ liễu của họ, dù rằng đi tới đâu họ cũng đều nhập tịch xứ đó và cũng hy sinh tính mạng những khi hữu sự y như người bản xứ.
Xin lược kể ra đây một vài trường hợp khinh ghét oái oăm mà người Do Thái phải hứng chịu tại các nước đạo Hồi:
• Tại Ba Tư (Iran) vào thế kỹ XIX tây lịch, người Do Thái chẳng khác gì hạng tiện dân bên Ấn Độ, vì đối với người bản xứ, hễ người Do Thái đụng tới một vật gì thì vật đó hoá ra nhớp nhúa bẩn thỉu. Do đó người Do Thái bị cấm triệt không được hành nghề như mở quán tạp hoá, nhà hàng ... Lúc trời mưa, họ không được ra khỏi khu vực dành riêng cho họ (có tên là Mellah) tương tự như các ghetto ở Âu Châu. Đặc biệt người Do Thái không có quyền làm chứng và tuyên thệ ở toà án. Sinh mạng của một người Do Thái không quá 140 Kraus (tiền Ba Tư).
• Tại Maroc, người Do Thái không được luật pháp công nhận quyền công dân dù họ đã vào quốc tịch. Lẽ sống chết của họ tùy thuộc vào nhà vua. Vua Maroc muốn bắt họ làm nô lệ thì họ phải tuân theo vì không biết dựa vào đâu mà kêu ca ngoài lời nguyện cầu Jahvé che chở.
• Tại Yémen trước 1948, người Do Thái không được phép lớn tiếng trước mặt người Hồi giáo, không được bán cùng món hàng với người Hồi. Ngoài ra, ngày thờ Mohamed, giáo chủ Hồi giáo, người ta cấm họ mặc các thứ vải có màu nhạt, mang khí giới. Trẻ con Do Thái mồ côi phải giao cho nhà cầm quyền để nhà cầm quyền cho chúng theo Hồi giáo.
Thân phận người Do Thái ở Âu Châu xét ra còn bi đát hơn nhiều so với thân phận người Do Thái ở Trung Đông. Suốt gần mười thế kỹ, không nơi nầy thì nơi khác, lúc nào cũng có những người Do Thái bị nhục cảnh ghetto, pogrom, hỏa hình lò thiêu, dìm nước. Người Do Thái bị buộc gắn hình bánh xe nhỏ hoặc hình ngôi sao David sáu cánh trên áo như tội phạm mang áo dấu, bị trút lên đầu lên cổ tất cả mọi tội lỗi mà họ không hề gây nên. Nhưng lúc họ được yên thân nhất cũng không khác thân phận nô lệ là bao vì người ta cấm họ có bất động sản, thành thử muốn theo nghề nông, họ chỉ có thể làm nông nô hay tá điền là cùng. Muốn khá giả, họ chỉ còn nghề đổi tiền và cho vay .
Sự học hành của người Do Thái ở các nơi nầy cũng bị hạn chế. Chẳng hạn ở Nga, chính phủ không ra mặt cấm hẳn sự học của họ nhưng lại áp chế một chính sách xảo quyệt là cho các trường trung học chỉ được thu nhận một số học sinh Do Thái khoảng 10% tổng số học sinh theo Thiên Chúa giáo, trong khi ở châu thành nào có dân Do Thái thì nhân số Do Thái cũng chiếm ít nhất 30% tổng số dân cư ngụ vì người Do Thái bị bắt buộc phải sống chung gần như trong các ghetto của Đức, của Ba Lan.
Tình cảnh của họ bất công đến nỗi một người theo Thiên Chúa giáo đã phải thốt ra câu nầy: "Nếu chỉ cần ghét tụi Do Thái cũng đủ là người Thiên Chúa giáo ngoan đạo thì hết thẩy chúng ta đều là những người Thiên Chúa giáo ngoan đạo".
Cuộc tàn sát Do Thái vì kỳ thị Thiên Chúa giáo thực sự bắt đầu từ thế kỹ XI trong cuộc viễn chinh của Thập Tự Quân kéo dài đến đầu thế chiến thứ hai thì chuyển hướng qua kỳ thị chủng tộc bởi Hitler và Đức Quốc Xã. 
3/ Kỳ thị tôn giáo
Năm 1096, người ta rủ nhau đi giải phóng mộ Chúa Ki Tô. Và còn gì hữu lý bằng, trước khi làm công việc thiêng liêng cao cả đó, trả thù những kẻ mà 11 thế kỹ trước đã phản bội Chúa nên Chúa mới bị chính quyền La Mã kết tội phiến loạn, bị đóng đinh trên Thánh Giá tại núi Golgotha cùng với hai tên đạo tặc.
• Ở Worms (Đức), trong hai ngày, người Âu Châu đã làm thịt 800 người Do Thái bất luận già trẻ, đàn ông hay đàn bà. Hễ là Do Thái mà không chịu theo Thiên Chúa giáo là bị chém bằng gươm bằng giáo.
• Ở Mayence (Đức) cũng vậy, 700 người Do Thái ngã gục chỉ vì họ là hậu duệ của kẻ đã giết Chúa (Juda) và đã được Chúa" xin Cha - Thượng Đế - tha thứ cho họ (người Do Thái) vì họ không biết họ làm gì". Chúa tha, nhưng đời đời kiếp kiếp tín đồ của Chúa, vốn không cùng chủng tộc với Chúa, không tha, quyết diệt cho tiệt cái nòi mà chính Chúa đã mượn thân xác xuống trần.
Mà thật ra, Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo vốn là"đồng bào ruột thịt"vì Đức Mẹ Maria và Chúa Jésus đều là người Do Thái và tất cả đều theo những điều luật của Moïse, cũng dân Do Thái nốt.
Còn nhiều, rất nhiều cuộc tàn sát Do Thái khác trước đệ nhị thế chiến nhưng vì không tiện liệt kê cả ra đây. Chúng ta hãy biết rằng năm 1905, Nga thua Nhật ở eo bể Đối Mã, cách mạng nổi lên ở Nga và dân Nga lại trút hết tội lỗi lên đầu người Do Thái, do đó có nhiều cuộc thảm sát Do Thái trong tháng 10 (1905) và vào năm 1919-1921 đã có trên 10 vụ pogrom.
4/ Kỳ thị chủng tộcTrước kia người ta giết Do Thái một cách thô bạo, dã man. Đến thế chiến thứ hai, Đức Quốc Xã của Hitler tàn sát họ rất bình tỉnh, có tổ chức, có kế hoạch, có chủ thuyết và có khoa học. Bởi vậy dân Do Thái chết như rạ, dầu Néron, Tần Thủy Hoàng có tái sinh cũng không thể không cúi đầu chịu thua trên phương diện lượng và phẩm khủng khiếp.
            holocaust03.jpg
Lửa kỳ thị tôn giáo và hận giết Chúa sau gần 20 thế kỹ dù sao cũng phải lụi phần sôi sục. Hơn nữa, rất nhiều người Do Thái đã cải giáo, cho nên muốn tận diệt họ, Hitler bèn tạo thêm lòng kỳ thị chủng tộc. Thuyết kỳ thị chủng tộc của Hitler đã được rút ra từ cuốn sách "Chủng Loại Các Thứ Cây" (Espèces en Botanique), xuất bản năm 1753 của nhà vạn vật học Thụy Điển Carl Linné (1707-1778). Từ hệ tống phân loại cỏ cây làm 24 giống, Linné phân loại tới loài người: Giống Âu da trắng siêng năng, giống Á da vàng dai sức, giống Phi da đen bạc nhược  và giống Mỹ da đỏ nóng nảy.
Chộp lấy hệ thống đó, Đức Quốc Xã tuyên truyền rằng giống Do Thái – vàng chẳng ra vàng, đen chẳng ra đen, trắng không thật trắng – có máu quỉ quyệt phản bội (phản Chúa), chống chính phủ (thuyết cộng sản của Marx, gốc Do Thái). Vậy, vì lý do an ninh của nước Đức và để bảo tồn huyết thống của giống Đức (giống Aryen) - một giống thông minh nhất thế giới, anh hùng nhất thế giới, tài giỏi nhất thế giới, cao thượng nhất thế giới - khỏi bị lây lai bậy bạ mà phải sa đoạ lần lần mất, chúng ta (dân Đức) phải tận diệt chúng (tức Do Thái) và tịch thu tài sản của chúng.
Từ năm 1939 đến đầu năm 1945, tính ra có trên năm triệu người Do Thái bị Hitler và đồng bọn thảm sát hoặc bằng súng đạn, hơi ngạt, hoặc bằng lò thiêu, chôn sống. Chỉ riêng tại trại Auschwitz cũng đã có gần ba triệu thây ma Do Thái.
Hai chữ Do Thái thật ra chỉ là danh xưng để gọi một giống người mà huyết thống, sau 2.000 năm vong quốc, đã bị lai loãng cả trăm, cả ngàn đời rồi. Cho nên có đến hàng trăm thứ Do Thái: Do Thái Pháp, Do Thái Bỉ, Do Thái Ý, Do Thái Anh, Do Thái Mỹ, Do Thái Nga, Do Thái Hung, Do Thái Thổ, Do Thái Đức, Do Thái Ba Lan, Do Thái Bồ Đào Nha, Do Thái Tây Ban Nha, Do Thái Ả Rập (Iran, Irak ..., Algérie, Maroc, Tunisie, Syrie, Egypte – Ai Cập ...), Do Thái Áo, Do Thái Phi châu da đen ... và cả Do Thái Tàu.
Tóm lại trên phương diện địa lý-văn hoá, giữa người Do Thái với nhau có sự phân chia đại cương thành 2 nhóm: Ashkénaze và Séfarade. Ashkénaze = Do Thái gốc Nhật nhĩ man (germanique: Đức, Anh, Hoà Lan... và mấy nước Bắc Âu) và Tư lạp phu (slave: Nga, Biélorusses, Ba Lan, Ukraines, Serbes, Croates, Slovaques, Tchèques...); Séfarade = Do Thái gốc Địa Trung Hải (méditerranéens: chủ yếu là Cận Đông, Bắc Phi và Tây Á).
5/ Phục QuốcBao lần quật khởi đẩm máu, người Do Thái vẫn không tránh được cảnh nước mất nhà tan, người người phân tán trên khắp địa cầu. Ở đâu họ cũng bị hất hủi, khủng bố, tàn sát cho nên lòng hoài hương của họ trong suốt 2.000 năm lúc nào cũng đau đáu trong lòng. Nỗi khổ của họ đã làm thi sĩ Anh Cát Lợi Byron buột miệng than"Dân Do Thái khổ hơn những con thú không có hang".
Dù ở Moscou, Paris, New York, Rome, Berlin, Londre ... người Do Thái luôn luôn hướng về thánh địa Jérusalem và xứ Israël, mảnh đất thiên đường mà, nghe nói, Thượng Đế đã đặc ban cho họ, một dân tộc, cũng nghe nói, được Chúa trời chọn. Bất cứ gặp nhau ở nơi nào, họ đều chúc nhau: Sang năm về Jérusalem.
Nói đến công cuộc phục quốc của người Do Thái mà không nói tới Théodore Herzl thì quả là một thiếu sót lớn. Vì nếu không có cuốn sách nhỏ mang tựa đề "Quốc Gia Do Thái" (L'Etat Juif) của Herzl, chẳng biết ngày nay thân phận hậu duệ ông Jacob đã đi đến vực thẳm khổ nhục nào rồi.
Théodore Herzl sinh năm 1860 tại Budapest (Hung Gia Lợi), viết báo, soạn kịch và hành nghề ký giả. Nhân vụ án Alfred Dreyfus, một sĩ quan gốc Do Thái-Alsace trong quân đội Pháp, làm sôi nổi dư luận Âu Châu năm 1894, Herzl được toà báo Neue Freie Press (tân Tự Do) phái tới dự thính vụ xét xử và lột lon Dreyfus (ngày 15/01/1895) trước công chúng Pháp để viết bài tường thuật. Sĩ quan Dreyfus bị Bộ Quốc Phòng Pháp ngờ cho là gián điệp của Đức, bị toà xử tội đày. Dreyfus một mực kêu oan. Nét mặt ông khi ra toà tại Rennes thật thảm thương, chân thành, gây lòng trắc ẩn cho một số người trong đó có văn hào Emile Zola (1840-1902) và ký giả Théodore Herzl.
Nghiệm thấy chứng cớ xử tội Dreyfus không đứng vững và tin rằng Dreyfus bị hàm oan, Emile Zola bèn can đảm viết loạt bài bất hủ nhan đề "Tôi Buộc Tội"  (J'accuse) trên tờ l'Aurore (01/1898) để buộc chính phủ Pháp xét lại trường hợp của Dreyfus. Bảy năm sau, có đủ tài liệu chứng minh sự vô tội của Dreyfus, toà phá án và tha bổng Dreyfus. Song sau 12 năm nằm tù một cách oan uổng, Dreyfus đã hoá ra con người bỏ đi.
Chính nỗi bất công mà Dreyfus phải hứng chịu đã thay đổi hẳn một người đồng chủng của ông là Théodore Herzl. Nỗi oan uổng đó đã làm Herzl gậm nhấm rằng "chỉ vì lỡ sinh ra là người Do Thái như mình mà Dreyfus phải bị tội oan". Cái án Dreyfus ám ảnh ông khôn nguôi và non một năm sau, ông viết một cuốn sách nhỏ tựa đề "Quốc Gia Do Thái", xuất bản tại Vienne (Áo) năm 1896. Sách được dịch ra nhiều thứ tiếng. Trong sách có đoạn viết "người Do Thái nào muốn có một quốc gia của mình thì sẽ có một quốc gia và xứng đáng được có quốc gia". Ấy vì "chỉ có mình mới tự cứu mình được thôi, và vấn đề Do Thái phải do người Do Thái giải quyết lấy".
Herzl hoạt động hăng say không tiếc sức. Chu du khắp nơi, gặp gỡ hết thảy các nhân vật có thẩm quyền lúc bấy giờ. Năm 1903, người Anh muốn tặng ông xứ Ouganda ở trung bộ Phi Châu, đảo Chypre ở Địa Trung Hải để thành lập quê hương Do Thái, nhưng các người Do Thái ở Nga - đặc biệt Chaïm Weizmann, sau nầy thành vị tổng thống đầu tiên của Israël - nhất định không chịu, kiên quyết đòi về đất Palestine cho bằng được.
Quá lao tâm lao lực ngày đêm tranh đấu thuyết phục các chính quyền, liên lạc với đồng bào trên thế giới, Herzl kiệt sức và qua đời tại Vienne (Áo) năm 1904 hồi mới 44 tuổi.
Năm 1914, thế chiến thứ nhất bùng nổ. Đồng minh trông cậy rất nhiều vào Anh quốc vì bấy giờ Anh làm bá chủ trên biển. Nhà cầm quyền nước Anh lúc đó vô cùng bối rối vì các nguyên liệu chế tạo thuốc nổ của họ thiếu một chất cốt yếu, đó là chất acétone. Trong những ngày khủng hoảng đó, nhà bác học Anh gốc Do Thái Chaïm Weizmann (1874-1952) đã sáng suốt nắm lấy cơ hội, chế biến được chất acétone nhân tạo giúp đồng minh đánh bại Đức năm 1918. Đế quốc Ottoman sụp đổ. Thực dân Anh cưỡng chiếm Palestine.
6/ Xin lưu ý:
Palestine không phải là một quốc gia mà là một vùng đất mênh mông thuộc đế quốc Ottoman, 1453-1917. Đệ nhất thế chiến chấm dứt năm 1918, thực dân Pháp "được ủy nhiệm "vùng Bắc Phi" (Maroc, Algérie, Tunisie, Libye) và bắc Cận Đông (Syrie và Liban). Palestine nằm dưới sự "ủy nhiệm" của thực dân Anh, nơi đây gồm các tộc Ả Rập Hồi, Thiên Chúa Giáo và Do Thái được gọi chung là Palestiniens (cư dân vùng Palestine).
Để thưởng công ông, thủ tướng Anh Lloyd George tặng ông một chi phiếu ký tên nhưng để trống số tiền. Ông từ chối và nói "xin thủ tướng hứa với tôi là sẽ dùng hết uy quyền của thủ tướng để cho đất Palestine được trả lại cho người Do Thái chúng tôi".
Quê hương Do Thái được thành lập vào năm 1922 nhưng bị đặt dưới quyền bảo hộ của Anh, tức là có tiếng mà không có miếng (Tuyên ngôn Balfour ngày 02/11/1917).
Năm 1938, trước khi chấm dứt thế chiến thứ 2 (1939), thực dân Anh đề nghị chia khoảng 30% lãnh thổ Palestine thành hai quốc gia: Một Ả Rập và một Do Thái, nhưng sự việc không thành.
Phải đợi đến cuối thập niên 1940 quốc gia Do Thái mới thành một thực tại độc lập. Trong thế chiến thứ hai, một lần nữa người Do Thái đã anh dũng chiến đấu phía đồng minh, đặc biệt bên cạnh Anh  mặc dù người Anh đã một lần xảo quyệt phụ rẫy công lao của họ (cho đất mà không cho quyền tự trị).
Khi chiến sự kết liễu, hy vọng độc lập của người Do Thái lại bay theo khói súng. Công chung sức diệt Đức Quốc Xã của họ không được Anh đếm xỉa tới. Sự kiện nầy trách Anh là chuyện thừa vì sự thành lập một quốc gia Do Thái độc lập ảnh hưởng đến lẽ sống chết của Anh: các mỏ dầu hỏa của Anh nằm hết bên các xứ Ả Rập – Ai Cập, Syrie, Ả Rập Séoudite, Cisjordanie - những quốc gia tử thù truyền kiếp với Do Thái.
Nghị quyết 181 của Liên Hiệp Quốc, ngày 29/11/1947, tán thành giải pháp chia đôi toàn bộ lãnh thổ Palestine thành hai quốc gia: Một Do Thái (56,47%) và một Palestine (43,53%). Thánh địa Jérusalem có một quy chế đặc biệt dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc. Khối Ả rập không chịu, đặc biệt người Palestine, viện cớ không được tham vấn trong việc phân chia.
Dầu vậy, ngày 14/05/1948, dưới sự lãnh đạo của David Ben Gourion (1886-1973), quốc gia Do Thái được thành lập. David Ben Gourion đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập:
"Đất Israël là nơi sinh ra dân tộc Do Thái". Chính nơi đó đã đặt nền móng cho bản sắc tâm linh, tín ngưỡng và dân tộc của người Do Thái. Chính nơi đó dân tộc Do Thái đã thực hiện nền độc lập của mình và đã tạo nên một nền văn hoá có ý nghĩa quốc gia và phổ biến. Chính nơi đó họ đã soạn ra bản Thánh Kinh và đã cống hiến cho thế giới.
Bị bức bách phải lưu xứ, tản mác trong mọi quốc gia khác, dân tộc Do Thái vẫn thủy chung với vùng đất Israël, chưa bao giờ họ ngưng nguyện cầu và ngưng hy vọng trở về để tái lập nền tự do quốc gia của mình.
Thúc đẩy bởi sự liên hệ lịch sử đó, người Do Thái đã đấu tranh qua bao thế kỹ để được trở về trên mảnh đất của tổ tiên và tìm lại xứ sở của mình. Qua mấy thập niên gần đây, người Do Thái đã trở về hàng loạt, khai khẩn các vùng đất hoang, tái sinh ngôn ngữ, xây dựng các thành phố, các thôn làng và sắp đặt một cộng đồng năng động và tràn đầy phát triển, có đời sống riêng về kinh tế và văn hoá. Họ cầu tìm hoà bình đồng thời sẵn sàng để tự vệ. Họ đã mang lại nhiều lợi ích trong tiến bộ cho mọi cư dân trong xứ và đã được chuẩn bị cho nền độc lập tối cao.
Năm 1897, hội nghị Sionisme [chủ nghĩa người Do Thái tự trị] lần thứ nhất, cảm hứng từ dự phóng một quốc gia Do Thái của Théodore Herzl, đã công bố quyền của dân tộc Do Thái trong mùa xuân mới dân tộc trên chính quê hương của họ.
Quyền đó đã được bản Tuyên Ngôn Balfour công nhận ngày 02 tháng 11 năm 1917  và được Hội Quốc Liên [Liên Hiệp Quốc] tái xác định, do đó đã thành sự công nhận quốc tế chính thức về mối liên hệ lịch sử của dân tộc Do Thái với vùng đất Palestine và quyền tái lập quê hương của họ.
Thảm hoạ Shoah (1) đã tiêu diệt hàng triệu người Do Thái tại Âu Châu, thêm một lần nữa chứng minh nhu cầu phải giải quyết vấn đề thiếu tổ quốc và độc lập của dân tộc Do Thái bằng sự tái lập quốc gia Do Thái hầu mở cửa cho mọi người Do Thái và trao cho họ một quy chế bình đẳng trong lòng cộng đồng các quốc gia.
Những người sống sót trong cuộc thảm sát tại Âu Châu cũng như những người Do Thái từ các quốc gia khác không hề buông bỏ sự cố gắng của họ để tìm về Israël, bất chấp mọi khó khăn, mọi trở ngại, mọi tai ương; và họ không ngưng đòi hỏi quyền có một đời sống có phẩm cách, có tự do và có công ăn việc làm liêm chính trên mảnh đất của tổ tiên họ.
Trong thế chiến thứ 2, sát cánh với các quốc gia yêu chuộng tự do, cộng đồng Do Thái Palestine đã đóng góp trọn vẹn phần mình trong chiến đấu chống lại ách Đức Quốc Xã. Với những hy sinh của quân sĩ và những cố gắng của họ trong chiến tranh, người Do Thái xứng đáng được có mặt giữa những quốc gia sáng lập Liên Hiệp Quốc.
Ngày 29 tháng 11 năm 1947, Hội Đồng LHQ đã tán thành một nghị quyết về việc tái lập một quốc gia Do Thái tại Palestine.
Hội Đồng đã yêu cầu cư dân trong xứ dùng mọi phương sách cần thiết để thực thi nghị quyết đó. Sự công nhận của LHQ về quyền của dân tộc Do Thái được phép tạo dựng một quốc gia độc lập cho họ [là sự công nhận] không thể vãn hồi.
Đó là quyền tự nhiên của dân tộc Do Thái, cũng như mọi quốc gia khác đã làm, hướng tới một hiện hữu độc lập trong đất nước tối thượng của họ.
Vì thế, chúng tôi, các thành viên trong Hội Đồng Quốc Gia, đại diện cho cộng đồng Do Thái Palestine và phong trào Sionisme Thế Giới, họp mặt trong đại hội long trọng hôm nay – ngày chấm dứt sự ủy nhiệm của người Anh tại Palestine - bằng vào quyền tự nhiên và lịch sử của dân tộc Do Thái và chiếu theo nghị quyết của Hội Đồng LHQ, chúng tôi công bố việc thành lập một quốc gia Do Thái tại Palestine, [quốc gia đó] sẽ có tên là Israël.
Chúng tôi tuyên bố rằng kể từ khi chấm dứt sự ủy nhiệm, vào nửa đêm ngày 14 tháng 05 năm 1948, và cho đến khi các cơ quan nhà nước thường trực được bầu chọn đúng theo bản hiến pháp sẽ được hoàn chỉnh bởi một hội đồng từ nay cho đến ngày 01 tháng 10 năm 1948, Hội Đồng Quốc Gia sẽ hành động với tư cách Hội Đồng Tham Chính Lâm Thời và nền hành chính trong nước sẽ thi hành nhiệm vụ của một chính phủ lâm thời của quốc gia Do Thái tên gọi là Israël.
Quốc gia Israël (QGI) sẽ mở cửa đón nhận mọi con dân Do Thái tản mác trên thế giới; QGI sẽ lưu tâm đến sự phát triển đất nước vì phúc lợi của mọi cư dân trong xứ; QGI sẽ được đặt nền tảng trên các nguyên tắc của Tự Do, Công Bằng và Hoà Bình đúng theo những gì mà các vị tiên tri Israël đã cưu mang; QGI sẽ bảo đảm sự bình đẳng toàn diện về xã hội và chính trị cho mọi công dân, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc hay giới tính; QGI sẽ bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo, giáo dục và văn hoá; QGI sẽ bảo đảm việc bảo vệ các thánh địa của mọi tôn giáo và sẽ tôn trọng những nguyên tắc trong Hiến Chương LHQ.
QGI sẵn sàng hợp tác với các tổ chức và đại diện của LHQ để thực thi nghị quyết đã được biểu quyết bởi Hội Đồng ngày 29 tháng 11 năm 1947 và dùng mọi phương sách cần thiết hầu đặt để sự Liên Kết Kinh Tế trên toàn lãnh thổ Palestine.
Chúng tôi yêu cầu LHQ giúp đỡ dân tộc Do Thái tạo dựng đất nước họ và thừa nhận Israël trong gia đình các quốc gia.
Là nạn nhân của sự công kích đặc trưng, tuy vậy chúng tôi yêu cầu các cư dân Ả Rập [sinh sống] trên đất nước Israël hãy dự phòng những đường hướng hoà bình và đóng góp vai trò của mình vào việc phát triển đất nước trên căn bản công dân đầy đủ và bình đẳng và tư cách thích đáng trong các cơ quan và học viện – lâm thời và thường trực - của xứ sở.
Chúng tôi dang tay, với biểu hiện hoà bình và láng giềng tốt, hướng tới mọi quốc gia và dân tộc bao quanh chúng tôi và chúng tôi kính mời họ đến hợp tác với quốc gia Do Thái độc lập vì điều tốt đẹp chung cho tất cả. QGI sẵn sàng góp phần mình vào sự tiến bộ của Cận Đông và trong toàn thể.
Chúng tôi yêu cầu con dân Do Thái trên thế giới hãy sát cánh với chúng tôi trong trọng trách hồi cư và phát triển cũng như hãy giúp chúng tôi trong cuộc tranh đấu thực hiện lại giấc mơ của bao thế hệ đã trôi qua: Chuộc lại Israël.
Vững tin vào đấng vĩnh hằng toàn năng, chúng tôi ký bản Tuyên Ngôn này trong phiên họp của Hội Đồng Quốc Gia Lâm Thời, trên bờ cõi của tổ quốc, trong châu thành Tel Aviv, rạng ngày lễ Shabbat, 5 Iyar 5708 tức ngày 14 tháng 05 năm 1948."
7/ Kiến Quốc
Giành được nền độc lập không có nghĩa quốc gia Do Thái sẽ được sống trong hoà bình để kiến thiết khi chung quanh họ các nước thù địch trong Liên Đoàn Ả Rập (được thành lập từ 1945) vẫn nhất quyết tận diệt họ. Hơn nữa, như chúng ta đã biết, có quá nhiều khác biệt trên mọi phương diện giữa người Do Thái với nhau và vùng đất mới được độc lập của họ vốn đã "chết" quá lâu, ảnh hưởng rất nhiều đến lẽ sinh tồn của họ.
Công việc đầu tiên mà Bộ Quốc Gia Giáo Dục Istaël gấp rút xúc tiến sau ngày 14/05/1948 là thống nhất tiếng Hébreu thành quốc ngữ. Thật vậy, sau 2.000 năm phiêu bạt khắp hoàn cầu, con cháu Abraham không những đã mất đi ít nhất 99% huyết thống chính tông trong người mà tiếng mẹ đẻ chẳng còn mấy người nói được. Thời mới phục hồi nền độc lập, dân số Israël được hơn một triệu gồm trên 50 giống người và mỗi giống mỗi ngôn ngữ, mỗi nếp sống, mỗi trình độ văn minh, văn hoá.
Để thống nhất ngôn ngữ, BQGGD Israël cưỡng bách mọi công dân Israël phải học tiếng Hébreu, soạn những sách phổ thông dạy từ 500 đến 1.000 tiếng căn bản để sau vài tháng dân chúng có thể đàm thoại với nhau được. Đồng thời Bộ còn cho dịch những danh từ mới về mọi ngành ra tiếng Hébreu để cho soạn sách từ cấp tiểu học đến đại học, tìm trong Thánh Kinh những chuyện cổ để dịch ra những ý niệm mới.
Vậy mà trong vòng 10 năm sau, ngành giáo dục của họ đã bắt kịp các nước tân tiến nhất. Ngôn ngữ mới được hồi sinh mà con cháu Abraham đã muốn tranh giành ảnh hưởng với các ngôn ngữ Anh, Pháp, Đức !
Hai đại học lớn nhất tại Israël là đại học Jérusalem gồm đủ phân khoa và Viện Công Nghệ, nơi đào tạo các kỹ sư đủ mọi ngành, đặc biệt ngành canh nông và kỹ nghệ. Ngoài ra còn có một viện chuyên về nghiên cứu là Viện Khoa Học Weizmann – tên vị tổng thống đầu tiên của họ - ở Rehovoth với những ngành như vật lý, hạch tâm, điện tử, vi trùng học, vật lý thực nghiệm ..., một đại học ở Tel Aviv và nhiều trường đại học khác khắp nước.
Tân tiểu quốc Israël nằm trên bờ Địa Trung Hải, phía bắc giáp Liban và Syrie, phía đông giáp Jordanie, phía tây nam giáp Ai Cập, phía cực nam giáp Hồng Hải.
                            jerusalem.gif
DIỆN TÍCH (2004): 20.770 cây số vuông (7.477 cs vuông là đất chiếm đóng sau 1948).
với nhiều miền khí hậu khác hẳn nhau. Họ nhất quyết muốn lấy thánh địa Jérusalem làm thủ đô nhưng cho đến nay (2005), vì vấn đề Palestine, chỉ có hai quốc gia trên thế giới công nhận Jérusalem là thủ đô của Israël, đó là Salvador và Costa Rica. Do đó, trong mắt thế giới, châu thành ven biển tân tiến và rộng lớn Tel Aviv được coi như thủ đô tạm thời. Tel Aviv có nghĩa là Đồi Xuân. (Tôi đã sửng sờ, kinh ngạc xiết bao khi tận mắt nhìn thấy một Tel Aviv huy hoàng, hiện đại chẳng kém Nice, Cannes của Pháp tí nào và ghê cho sự năng động, quyết tâm của họ).
Các thành phố chính khác: Haïfa, Rishon Le-Zion, Petah Tiqwa, Ramat Gan, Beercheba, Nazareth.
DÂN SỐ: 6.559.000 người (2004)
trong đó có khoảng 19% là người Ả Rập (1,2 triệu), số còn lại gồm 53 thứ Do Thái từ khắp nơi tụ về. Xin lưu ý, từ khi thành lập quốc gia Israël (1948) người Do Thái ở trong nước được gọi là Israéliens / Israelis (công dân quốc gia Israël) để phân biệt với những người Do Thái ở hải ngoại (Juifs / Jews).
TỔNG SẢN LƯỢNG QUỐC GIA: 120.900.000.000 US$ (2003)
THU NHẬP BÌNH QUÂN NGƯỜI / NĂM: 19.800 US$ (2003)
TIỀN TỆ: Shekel, ký hiệu: NIS (New Israeli Shekel)
1 NIS = 0,18€ / 0, 22 US$ - 1 € = 5, 74 NIS; 1 US$ = 4, 54 NIS (17/07/2005)
NGÔN NGỮ CHÍNH THỨC: Tiếng Hébreu và tiếng Ả Rập. Ngoại ngữ thông dụng là tiếng Anh và tiếng Pháp.
CHÍNH THỂ: Cộng Hoà Đại Nghị. Đa đảng (13 đảng). Hai đảng lớn mạnh nhất hiện nay là Đảng Lao Động (tả phái) và Đảng Likoud (hữu phái) đang nắm quyền. Quốc hội (Knesset) gồm 120 nghị viên, có nhiệm vụ biểu quyết quyền lập pháp và kiểm soát chính phủ.
Tổng thống do quốc hội bầu ra, nhiệm kỳ 7 năm (trước chỉ 5 năm), mang tính cách biểu tượng, rất ít thực quyền. Tổng thống chỉ định thành phần trong tối cao pháp viện, nhiệm kỳ suốt đời (trong thực tế việc chỉ định nầy phải thông qua và có sự chấp thuận của quốc hội).Thủ tướng thường là người lãnh đạo đảng có số phiếu cao tuyệt đối hay liên minh đa số ghế trong quốc hội. Thủ tướng nắm quyền hành pháp, trực tiếp lãnh đạo đất nước, nhiệm kỳ 4 năm, nhưng khi hữu sự đa số trong quốc hội có quyền biểu quyết bải nhiệm thủ tướng trước hạn kỳ. Ví dụ: Tháng 11 năm 1995, thủ tướng Yitzhak Rabin bị ám sát, ông Shimon Peres lên thay nhưng chỉ 6 tháng sau, ông bị đa số trong quốc hội bỏ phiếu bất tính nhiệm, tổ chức bầu bán trước hạn kỳ, ông Peres thất cử, ông Benjamin Netanyahu lên nắm quyền (29/05/1996).
QUỐC KỲ hiện hành của Israël vốn là biểu tượng của phong trào Sionisme từ thế kỹ 19. Nền trắng. Trung tâm là hình sao David sáu cánh với hai gạch màu xanh dương nằm ngang trên và dưới.
QUỐC KHÁNH: 14/05.
QUÂN DỊCH: Công dân Israël từ 17 tuổi bất luận nam hay nữ ở trong hay ở ngoài nước: Nam: 3 năm toàn thời gian; Nữ: 2 năm toàn thời gian và sau đó 1 tháng dự bị mỗi năm (nam hay nữ khi còn độc thân).
QUÂN ĐỘI: 173.000 lính tại nhiệm + 425.000 dự bị = 598.000 (2002).
Israël chưa có văn bản chính thức về hiến pháp. Mọi điều hành của chính phủ thường dựa vào các điều luật của quốc hội, các quy ước lập hiến và bản tuyên ngôn độc lập của quốc gia Israël (1948).
Không phải vô tình mà Israël chưa"có nổi"một bản hiến pháp chính thức đâu mà hậu ý là muốn cô lập hay vô hiệu hoá cộng đồng thiểu số Ả Rập (1,2 triệu) trên mặt chính trị đối nội lẫn đối ngoại, ít ra cho đến khi Israël giải quyết êm thấm và bền vững được xung đột với Palestine và khối Ả Rập. Chưa có hiến pháp chính thức thì nhóm chủ thể Ashkénaze dễ dàng nắm trọn quyền điều hành đất nước. Ý kiến về bản hiến pháp đã được nêu ra, đòi hỏi cũng đã được lên tiếng, kêu gào từ nhiều năm qua, nhưng, viện cớ còn chiến tranh, Knesset"xin ghi nhận và đang nghiên cứu".
Việc kiến thiết tân quốc gia Israël, xét chung, người dân phải bắt đầu từ con số không. Ở đây, tôi chỉ xin đơn cử vài thí dụ điển hình mà theo tôi tóm gọn được nổ lực siêu phàm san bằng những trở ngại thiên nhiên của họ. Đó là sự phát triển kinh tế trên bãi sa mạc Neguev,"kẻ thù số một phải khuất phục của Israël"theo lời bà Golda Meir, thủ tướng Israël, 1969-1974).
Sa mạc Neguev (Neguev = Phía Nam) rộng hơn phân nửa diện tích toàn xứ Israël (13.000 cs vuông), nằm phía nam châu thành Tel Aviv, đỉnh cực nam là Hồng Hải với thành phố biển Eilat. Trước thế chiến vừa qua, Neguev hoàn toàn hoang vu khô cháy, lồi lõm. Văn minh tiến bộ như thực dân Anh mà còn chịu thua, không sao khai thác được.
Theo tôi, có hai nguyên nhân sâu xa khiến chính phủ Israël phải khai phá vùng cát"chết"nầy. Một là để nuôi dân: đất đai thì hẹp mà dân số tăng rất nhanh (qua các phong trào hồi hương tập thể). Hai là để củng cố mặt quốc phòng: không để khoảng đất rộng nào không có người ở hầu tránh sự xâm nhập của kẻ thù.

8/ Chiến thắng sa mạc

Thường tình người ta chỉ tính năng suất của đất đai theo diện tích, có nghĩa là mức sản xuất hàng năm được bao nhiêu mỗi héc-ta. Riêng tại Israël thì sự tính toán hơi lạ đời vì dân ở đây tính năng suất theo ... khối nước tưới ! Mỗi năm có bao nhiêu nước và mỗi khối nước sinh lợi được bao nhiêu. Bởi vậy, một mặt họ lo cách thức kiếm nước, một mặt họ tìm mọi cách hầu tránh chuyện nước bị hao hụt đi, chẳng hạn nước bị bốc hơi hay thấm vào lòng đất.
Phương pháp dẫn thủy nhập điền rất công phu tỉ mỉ ở Việt Nam hay ở Trung Quốc đã làm thế giới ngạc nhiên, song đem so với những nổ lực phi thường của dân tộc được Chúa chọn thì hãy còn kém xa.
Mỗi năm vùng sa mạc Neguev chỉ giữ được từ 2 đến 4 phân nước. Như vậy, muốn trồng trọt thì phải có nhiều nước, nhưng làm thế nào?
Vấn đề thiếu nước ở Israël là nguyên nhân sinh ra lắm thứ thuế oái oăm. Ví dụ: Trong giá tiền một chai bia được tiêu thụ, một nửa là thuế dành cho công cuộc tìm nước. Họ đã nghĩ đến việc đào giếng, dùng nước mưa và nước biển, nhưng lấy đâu cho đủ nước trong khi ở đây mưa chẳng mấy lúc; còn nước biển thì ngoài công dụng cho kỹ nghệ ra, súc vật còn chịu không nổi huống hồ cỏ cây. Cho nên họ bèn thăm dò những dòng nước ngầm dưới lòng đất nằm ven biển và đã khám phá ra những nơi nầy có một tầng đất không thấm nước, chứa lại khá nhiều nước ngọt, chẳng hạn trong khu Avedat.
Hiện nay số nước rút được từ các nơi đó là khoảng 140 triệu thước khối trong một năm. Những vùng có nước ngầm đã trở nên bồn nước thiên nhiên dành cho cả khu vực Yarkon – Neguev. Nhất là từ khi sử dụng được dòng sông lịch sử Jourdain, tổng lượng số nước rút được hàng năm lên tới 5 tỉ thước khối đủ dùng cho mọi nhà, mọi ngành kỹ nghệ và 4 triệu dounams đất khô cháy (10 dounams tương đương với 1 héc-ta).
Để tránh việc phí phạm nước, dân israéliens bơm xuống lòng đất hàng triệu thước khối nước - kể cả nước cống đã được lọc và khử trùng – cho khỏi bị bốc hơi. Thật chưa dân tộc nào cần"nước"như người Do Thái. Song xét ra phương pháp đặt ống dẫn nước vẫn hiệu nghiệm hơn cả. Ống dẫn nước ở Israël có lẽ là loại ống dẫn kỹ lục: dài từ 4 đến 170 cs, nặng không dưới 32 tấn, mỗi đoạn 5 thước đường kính và 3 thước bề dài, đặt ngay trên mặt đất, có khi phải xuyên núi, vượt đèo và thung lũng. Hệ thống dẫn nước của họ là cho nước chạy theo ống dẫn lớn, qua ống nhỏ, phân ra làm muôn ngàn nhánh mỗi lúc mỗi bé để rồi tung ra ruộng nương, vườn tược qua các máy nước chẳng khác gì các trận mưa nhân tạo.
Nước chảy đến đâu, người dân tìm theo đến đấy và sự canh tác tiến triển tùy nhịp nước lan mau hay chậm.
Thủ đô của sa mạc Neguev là thành phố Beersheva, tụ điểm của hầu hết những người Do Thái hồi hương từ khắp nơi trên thế giới. Chính Abraham đã đặt ra tên Beersheva (Giếng thề).
Dưới bầu trời sa mạc nóng cháy Neguev (trung bình 36° C), người ta thấy gồm đủ hạng người, từ anh kỹ sư, nhạc sĩ đến chị bán hàng, chú thợ máy; từ bác tiến sĩ, thím giáo sư đến cô y tá, em sinh viên, cậu cu li. Bấy giờ mọi dị biệt xã hội giữa họ đều được san bằng, tất cả chỉ còn là những đứa con của Israël chung vai sát cánh hồi sinh vùng Đất Hứa.
Nhờ những cố gắng, những hy sinh như thế mà ngày nay du khách ghé Israël sẽ thấy cả vùng sa mạc Neguev đã mơn mởn màu xanh của lúa và trổ đầy hoa trái. Các giống nho lừng danh của Pháp như Bordelais, Beaujolais, Bourgogne cũng đã"sống"được trên sa mạc, khai sinh ra một thứ rượu vang nổi tiếng trong vùng Darom. Mỗi độ thu về, các vườn cam, vườn quýt, vườn bưởi, vườn chanh, vườn chuối, vườn chà-là ... trổ bông hương thơm ngào ngạt đến tận châu thành Tel Aviv.
Và không thể không nhắc tới tiến sĩ Samuel Appelbaum (sinh năm 1942), giám đốc trung tâm Bengis thuộc đại học Ben Gourion (Beersheva), người đã thành công trong công trình nghiên cứu ứng dụng nước mặn và nóng dưới lòng sa mạc Neguev vào canh tác trồng trọt, đặc biệt như aquaculture và pisciculture (tạm dịch: Thủy canh và Bể canh). Trước thập niên 1990, ý nghĩ nuôi tôm cá trên sa mạc là điều không tưởng, là ý tưởng làm phịch cười giới khoa học, thế mà nay Samuel Appelbaum đã kiên trì và đã làm được, do đó được mệnh danh là nhà tiên tri thời hiện đại.

Tấm gương Do Thái
Đọc lịch sử phục quốc và kiến quốc của dân tộc Do Thái chúng ta học được rất nhiều điều quí báu, từ tinh thần quốc gia dân tộc đến tinh thần đoàn kết; từ ý chí phục quốc đến đức hy sinh, sức chịu đựng ghê gớm; từ kinh nghiệm định cư, giáo dục đến nông lâm mục súc; từ tổ chức cộng đồng đến tổ chức quân đội (1)... Nhưng 2 tấm gương cao quí nhất mà họ đã gián tiếp vạch ra cho chúng ta thấy, đó là cái họa Thực Dân, Đế Quốc và nhất là tinh thần Thượng Tôn Quyền Lợi Quốc Gia.
Thực dân, đế quốc nào, bất luận Đông Tây, cũng chỉ nghĩ đến quyền lợi của họ trước hết và sau cùng và dĩ nhiên bảo hộ, khai hoá, hữu nghị, tương trợ, đồng minh đồng miếc gì gì cũng chỉ là các loại bình phong che đậy những tà vọng trục lợi. Lỡ gian díu với thực dân đế quốc thì chóng chầy thế nào cũng điêu đứng, lầm than, tàn tạ với họ.  
Hiện nay Israël có tất cả 13 đảng phái. Mỗi mùa bầu cử quốc hội các đảng phái cũng sôi nổi, cũng mánh mung như các nơi khác, nhưng sau đó, đảng nào lên nắm quyền cũng tuyệt đối thượng tôn quyền lợi quốc gia: Quyền lợi quốc gia là trước hết và sau cùng. Quốc gia là trên hết. Có thể tóm gọn thành "Dân vi quí, xã tắc thứ chi, đảng vi khinh".
Và người Do Thái gián tiếp cho các dân tộc đang phát triển (nghĩa là chưa phát triển nếu không muốn nói là đang nghèo khó) thấy rằng một dân tộc càng bị đẩy vào chỗ chết càng mau kiếm được lối sống, miễn là dân tộc đó có muốn hay không muốn thôi. Một khi đã quyết sống, tự cho mình là một thực tại dân tộc đặc thù thì thực dân, đế quốc, chủ thuyết đến từ phía nào cũng phải nhượng bộ, nhìn nhận cái thực tại độc lập đó !
Non 20 năm nay tôi làm việc và tiếp xúc khá nhiều với người Do Thái tại Tây Âu, mày mò tìm hiểu về họ và có dịp may qua Israël tu nghiệp hai lần, cho nên ngoài niềm khâm phục dành cho họ trên tổng thể, tôi có chút nhận xét ngoại vi, đó là có sự kỳ thị ngấm ngầm nhưng sâu sắc giữa hai nhóm Do Thái, đặc biệt cộng đồng Do Thái chủ thể Ashkénaze - tự cho mình là dân trí thức - vẫn có cái "nhìn xuống" đối với cộng đồng Do Thái Séfarade (hồi hương từ  Bắc Phi) mà họ đánh giá là lái buôn, ít học. Lấy ví dụ ở Israël cho đến nay không hề có bộ trưởng nào cũng như chưa hề có một thẩm phán Do Thái gốc Ả Rập trong Tối Cao Pháp Viện. Từ khi lập quốc năm 1948 đến nay (2006), Israël có 8 tổng thống và 13 thủ tướng, tất cả đều gốc Ashkénaze. Đơn cử : Đương kim tổng thống là Moshé Katsav và trước cuộc chiến với Hezbollah, thủ tướng Ariel Sharon, cả hai trước thuộc đảng Likoud, nay ông Sharon thuộc đảng Kadima, và đương kim thủ tướng Ehud Olmert.
Sau chiến tranh ném đá 2 (Intifada 2), ở Jaffa, người Ả Rập mua bán trong các chợ Ả Rập, người Do Thái mua sắm trong các siêu thị. Thu nhập khác nhau, cách sống khác nhau, hai cộng đồng vẫn song hành, vẫn giao nhau nhưng chẳng thấy nhau. Đạo diễn Avi Mograbi từng viết "họ đã thành công khi làm biến mất người Ả rập trên đất nước" vì ở đây "người ta có thể nghe tiếng Hébreu, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Anh ... và mọi thứ tiếng khác TRỪ tiếng Ả Rập.[...] Văn tự Ả rập biến mất trên các tên đường. Mọi bảng hiệu hoàn toàn được kẻ bằng chữ Hébreu và chữ Anh, kể cả tên họ trên các chuông cửa".
Ngày 01/10/2000, quân đội Israël bắn chết 13 công dân Israël gốc Ả Rập trong một cuộc biểu tình tại Naplouse. Tại Tel Aviv, một số công dân Israël-Séfarade nghiệm ra rằng người ta có thể bắn sả vào họ như bắn người Ả-rập Palestine (năm 2000 có chừng 120.000 nhân công Ả -r â ậ p Palestine qua lại làm việc bên Israël), còn một số công dân Israël-Ashkénaze khám phá ra rằng các thợ thuyền hay các người giúp việc - gốc Ả Rập - trong gia đình mình có thể bất ngờ trở thành hiểm họa, cho nên đã thay thế lần lần bằng các nhân công di cư Nga, Roumanie, Philippine...Cứ đà nầy, Tel Aviv sẽ thực hiện được giấc mơ thuở ban đầu: Thành phố dành riêng cho người Do Thái-Ashkénaze.
Do đó mới nảy ra câu hỏi: Cái gì đã tạo ra cái gì? Khủng hoảng Do Thái - Palestine đã tạo ra sự kỳ thị Ả Rập hay sự kỳ thị Ả Rập là nguyên nhân kéo dài không biết đến bao giờ khủng hoảng Do Thái - Palestine? Và câu hỏi này làm tôi suy nghĩ lung về chúng ta, Trong và Ngoài: "Những chân lý khác biệt ở vẻ ngoài xem chừng tượng tự vô số những chiếc lá trông khác nhau nhưng nằm chung trên một gốc cây". (Bapu Mahatma Gandhi: Lettres à Asbram).
Trích lược: Vietsciences-HànLệ Nhân

Thứ Hai, 5 tháng 9, 2011

Mặt trong của tấm thiệp


Hãng thiệp lừng danh Hallmark có một khu vực đặc biệt, nơi trái tim lên tiếng... cười nhạo và gửi vào trong những tấm thiệp. Dưới đây là một số trong đó.

Thiệp 1: Anh luôn luôn muốn một ai đó để ôm ấp, ai đó để yêu thương. Và bây giờ em tới và bước vào cuộc đời anh…
(bên trong tấm thiệp) - Anh đã đổi ý.
Thiệp 2: Anh phải thú nhận, em đã mang đức tin vào cuộc đời anh…
(bên trong tấm thiệp) - Anh chưa bao giờ tin vào địa ngục cho tới khi anh gặp em.
Thiệp 3: Ngày lại ngày trôi đi, anh tự nghĩ mình thật may mắn làm sao…
(bên trong tấm thiệp) - Khi mà em không ở đây để làm hỏng hết cả mọi việc của anh.
Thiệp 4: Chúc mừng em nhân ngày cưới!...
(bên trong tấm thiệp) - Quá tệ, không ai ưa chồng của em cả.
Thiệp 5: Một ngày nào đó anh hy vọng được cưới…
(bên trong tấm thiệp) - Một ai đó chứ không phải là em.
Thiệp 6: Chúc mừng sinh nhật! Ở tuổi này em trông tuyệt...
(bên trong tấm thiệp) - Gần như là người thật.
Thiệp 7: Khi chúng ta ở bên nhau, em đã nói rằng em sẽ chết vì anh…
(bên trong tấm thiệp) - Bây giờ chúng ta vừa chia tay, anh nghĩ đã đến lúc em giữ lời hứa.
Thiệp 8: Chúng ta đã là bạn trong một thời gian dài…
(bên trong tấm thiệp) - Em sẽ nói sao nếu chúng ta chấm dứt điều đó?
Thiệp 9: Anh thật khốn khổ khi thiếu em…
(bên trong tấm thiệp) - Như thể em vẫn còn ở đây.
Thiệp 10: Chúc mừng niềm vui mới của em…
(bên trong tấm thiệp) - Em đã tìm ra ai là cha cái thai chưa?
Thiệp 11: Em là một người bạn thật tốt. Nếu chúng ta ở trên một cái tàu đang chìm và chỉ có mỗi một cái áo phao…
(bên trong tấm thiệp) - Anh sẽ cực kỳ nhớ em và thường xuyên nghĩ về em.
Thiệp 12: Nhìn lại những năm tháng chúng ta ở bên nhau, anh không thể không tự hỏi….
(bên trong tấm thiệp) - Hồi đó anh nghĩ thế quái nào vậy?

Tiếng đóng cửa của đứa con hiếu thảo

Tôi chuyển nhà đến nơi ở mới không bao lâu, cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếp là âm thanh của một tràng tiếng chân bước đi ting ting tang tang. Những ngày kế tiếp, tiếng đóng cửa cũng đúng giờ ấy vang lên khiến tôi không sao chịu nổi, chẳng lẽ phải lên lầu để tranh luận. Mẹ tôi khuyên “Chúng ta mới chuyển đến, con làm như vậy có thể hơi thiếu suy nghĩ và dễ làm mất lòng hàng xóm". Tôi suy nghĩ hoài và hỏi ý kiến mẹ “Vậy thì chúng ta đi tìm trưởng dân phố, thử xin cô ấy giúp được không?” mẹ tôi đồng ý.

Cô trưởng dân phố nghe chúng tôi trình bày xong thì khuyên nhủ và an ủi tôi rằng: “Chị cố gắng chịu đựng tiếng đóng cửa của gia đình bất hạnh đó một thời gian. Nửa năm trước, người cha bị tai nạn xe qua đời; người mẹ bị ung thư, nằm dài trên giường không đi lại được. Tôi đoán, tiếng đóng cửa đó là của đứa con. Nghĩ lại cũng thật đáng thương, xin chị khoan dung cho!”.

Đúng vậy, cậu ta khỏang 16,17 tuổi, trông thật thông minh. Tôi tự nhủ “Phải cố chịu đựng thôi”. Mấy ngày sau tiếng đóng cửa vẫn cứ như vậy, và rốt cuộc tôi đành lên gõ cửa căn hộ nọ. Cậu bé đó ra mở cửa, hốt hoảng run cầm cập xin lỗi tôi: “ Dì ! cháu xin lỗi, sau này cháu sẽ ráng cẩn thận...”

Tối hôm sau, tôi vừa thiu thiu an giấc thì tiếng đóng cửa quen thuộc đó lại vang lên đập mạnh vào tai nghe chát chúa, mẹ tôi an ủi  “Nhẫn đi con, có lẽ thằng bé đã thành thói quen, từ từ rồi nó sẽ sửa đổi”

 Mấy ngày kế tiếp, đúng như lời mẹ nói, tiếng đóng cửa đó biến mất. Tôi nằm trên dường nín thở lắng tai nghe, tiếng chân cũng nhỏ đi nhiều, bước đi nhè nhẹ xem ra rất cẩn thận.
“Mẹ ! mẹ nói thật đúng” tôi vừa dứt lời, hai mắt mẹ tôi bỗng nhiên ngấn lệ, bà ngẹn ngào nói “Mẹ thằng bé trên lầu đã ra đi rồi, mấy ngày qua thằng bé ban ngày đi học, ban đêm đến quán ăn chạy bàn, nó đi làm thêm để kiếm tiền chạy chữa cho mẹ, nhưng rồi bà ấy vẫn mất... ”

Một tối nọ, bất ngờ tôi gặp cậu bé ấy ở cầu thang của dãy lầu, nó cúi thấp đầu đau buồn bước đến gần tôi nói: “Dì! Chắc dì bị mất ngủ nhiều, mấy ngày trước cháu làm ảnh hưởng giấc ngủ của dì, thật là có lỗi”. Một lát sau, cậu bé nói như run lên: “Tiếng đóng cửa mạnh như vậy là do cháu cố ý. Mẹ cháu mỗi ngày một yếu, nói không được, khả năng nghe kém dần, cháu đóng cửa mạnh là muốn để mẹ biết được con mình đã về mà yên tâm đi vào giấc ngủ, sau này sẽ không còn nữa đâu...”

Cậu bé nói gì?! Tôi như không nghe được nữa, lệ từ hai khóe mắt tôi cứ tuôn trào ra...
  
Như Nguyện dịch theo zhongguofojiaowang

CÂU CHUYỆN VỀ MẸ


Giật mình thức giấc. Cảm thấy khát khô ở cổ, tôi lồm cồm ngồi dậy mở tủ lạnh nốc một hơi. Nước lạnh làm tôi tỉnh người. Nhìn đồng hồ đã hơn 4g sáng.
Tôi đến bên máy vi tính bật máy lên. Mở chương trình Nhật Ký định nhập vào những việc mình đã làm hoặc những suy nghĩ về một ngày đã qua. Nhưng chương trình lại bật lên thông báo nhấp nháy màu đỏ chói: "Tuần sau là đến ngày đầu tiên quen em". Tôi chỉnh chương trình để xem lại cái ngày đầu tiên đó và mỉm cười khi thấy lúc đó mình trẻ con hết sức.

Tôi quyết định sẽ lục tung hết Internet để tìm ra một cái thiệp độc chiêu gửi nàng. Cuối cùng tôi cũng mãn nguyện với một cái thiệp nhiều ý nghĩa. Tôi kéo ngăn tủ ra để lấy cái đĩa CD hình mình để ghép vào thiệp, nhưng chợt nhìn thấy trong đó có một gói quà xinh xắn. Biết là của M tôi hồi hộp mở gói quà. Bên trên là một tấm thiệp to, còn bên dưới là một chiếc đồng hồ để bàn rất dễ thương và một cái nút áo. Hơi ngạc nhiên khi nhìn cái nút áo, tôi vội mở thiệp ra xem.

"Anh thân mến!

Thế là chúng mình quen nhau đã 3 năm rồi. Trong 3 năm qua em rất vui vì đã quen được anh. Em đã học được rất nhiều điều từ anh.

Anh là người rất giỏi, làm được rất nhiều việc lại sống rất tốt với mọi người. Anh sống hết sức chan hoà không câu nệ giàu nghèo, chức vị. Anh hết lòng với mọi người và được rất nhiều anh em bè bạn mến yêu, kính nể.

Tối nay, cũng như bao ngày em đến nhà anh, đã 9g tối anh vẫn chưa về nhà. Khi đến nhà anh, em nhìn thấy mẹ đang khâu lại chiếc áo bị bỏng thuốc lá của anh. Nhìn mẹ chợt em nhớ đến anh, rồi nhớ đến những gì em đã thấy ở nhà anh.

Em xin phép tặng cho anh cái đồng hồ với lời nhắn: "Thời gian luôn trôi đi lạnh lùng. Có những thứ ngày mai làm được, nhưng có những thứ ngày mai không thể nào làm được".

Và một cái nút áo với lời nhắn chân tình: "Ðôi khi người ta biết được rất nhiều điều nhưng lại không biết một điều đơn giản là áo mình đang mặc có bao nhiêu cái nút!". Anh đã sống vì mọi người nhưng trong mọi người lại thiếu một người quan trọng nhất. Anh hãy xem tờ giấy bên dưới. Chúc anh luôn vui vẻ và thành đạt".

Tôi cầm đồng hồ và cái nút lên, bên dưới có một tờ giấy xếp làm tư nằm ngay ngắn, tôi mở ra xem và thấy ngẩn ngơ với những dòng chữ dưới đây:

Em thấy anh rủ bạn về nhà cùng vui vẻ, làm xả láng mấy thùng Ken, anh em bàn tán chuyện đời, chuyện cơ quan, chuyện nhà sếp, chuyện quan trường, đủ thứ chuyện nhậu hoài bàn hổng hết.

Em thấy mẹ cặm cụi dọn dẹp thức ăn dư, lom khom nhặt từng vỏ lon xếp lại, sáng mai ra chợ đổi lấy chục chanh pha nước, cho thằng con tỉnh rượu mỗi khi say.

Em thấy anh sáng ra sạp gom gần hết báo, đọc ngấu nghiến từng bài từng mục. Ngẫm chuyện đời, chuyện quan liêu, chuyện cửa quyền, chuyện Mỹ, chuyện I rắc, chuyện SEAGames...

Em thấy mẹ cẩn thận sắp từng tờ báo, lựa riêng ra những phần quảng cáo rồi ngập ngừng hỏi cái này cân ký bán được hông con?

Em thấy anh chơi hết lòng với bạn, chẳng bỏ về dù tăng 4 hay tăng 3...

Em thấy mẹ cứ trằn trọc ra vô mãi, 2g rồi mà phòng nó vắng tanh

Em thấy anh sau một ngày làm mệt mỏi, về nhà bật máy lạnh, bật quạt, ngã lưng nằm thẳng chân, chẳng muộn phiền.

Em thấy mẹ ra hiên nằm những ngày trời nóng, rồi lẩm bẩm xem điện tháng này có quá định mức chưa.

Em thấy anh ghiền chơi vi tính, cứ băn khoăn hoài chuyện nâng cấp CPU lên 2 hay 3 Gb.

Em thấy mẹ rất ghiền xem cải lương, cứ chặm nước mắt, cứ cười vui thoải mái khi xem hoài cái tivi cà giật, cái Tivi từ lúc anh tắm mưa.

Em thấy anh chuyên viên vi tính, viết phần mềm để quản lý công ty, xem công nợ, lãi lỗ, bấm một phát là có ngay. Thế mà chẳng thể nào tính đúng được tình thương của mẹ.

Em thấy mẹ chẳng cần vi tính, vẫn âm thầm lập trình cá, cơm, rau. Biết chị Hai cái áo ủi không ngay, còn anh nữa đôi giày cả tuần chưa chịu đánh!

Em thấy anh chuyên làm chuyện lớn mà quên đi những chuyện nhỏ xung quanh.

Em thấy mẹ suốt đời vụn vặt mà dạy con mình những bài học lớn lao...


Có bao giờ chúng ta quan tâm đến những chuyện dù chỉ là nhỏ nhặt?

Có bao giờ chúng ta tự đặt mình vào hoàn cảnh của người khác?

Hãy dành những lời chúc tốt đẹp nhất cho những người người mẹ - người luôn hướng sự quan tâm về phía chúng ta mà không cần đòi hỏi lại bất kỳ điều gì!

Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2011

Hiện tình người Do Thái

PHAN KHÔI: TÁC PHẨM ĐĂNG BÁO 1928

Hiện tình người Do Thái  

                                                                                                                                                                                                                
Trong số báo vừa rồi, nơi bài nói về việc ông Loewenstein đi máy bay sẩy tay rơi xuống biển Manche, chúng tôi có nói mấy lời đến người Do Thái, vì ông ấy là người DoThái (Juif).
Do Thái là một dân tộc mất nước đã hai ngàn năm nay, hiện bây giờ họ không có một miếng đất cắm dùi, đi ở đậu hầu khắp các nước trên trái đất; thế mà họ có thế lực lớn lắm, cho đến người Âu Mỹ cũng phải lấy cái thế lực họ làm đáng lo. Như thế, há chẳng là một sự lạ mà người An Nam ta nên biết lắm ư?
Đã lâu nay, chúng tôi có ý muốn đem cái dân tộc có vẻ thần bí khó hiểu ấy mà giới thiệu cùng độc giả, tiếc vì chưa có thì giờ mà nghiên cứu cho tường tất được. Nay nhơn trong bài nói sự ông Loewenstein trót đã nói đến, vậy chúng tôi cũng ước lược mà nói luôn cái hiện tình của người Do Thái cho đồng bào ta nghe qua. Chúng tôi không dám tự phụ là khảo cứu đã kỹ càng, chỉ biết được chừng nào thì chúng tôi nói chừng nấy.
Số người Do Thái ở các nước
Người Do Thái ở tản lạc khắp các nước thế gian, số người họ tính hết được bao nhiêu, thật không có sổ thống kê cho rành rẽ. Cứ theo sách Almanach de Gotha, năm 1900, số người họ ở Âu châu được 7.650.000 người. Đến năm 1914, cứ như hội Thống kê số dân Do Thái báo cáo thì đã lên đến 11.000.000 người. Mới đây Do Thái niên giám kể số người Do Thái ở toàn cầu là 16.000.000 người, thế là đã tăng lên nhiều lắm!
Thế nhưng, cái sổ mục ấy chưa chắc đã là đúng. Bởi vì, dân Do Thái ở các nước, có nhiều nhà ở nơi hẻo lánh, xa chốn thành thị và nhà thờ của họ cho nên không có thể làm sổ nhơn khẩu cho phân minh được. Vậy nếu bây giờ điều tra cho thật kỹ ra thì có lẽ dân số họ còn nhiều hơn nữa, không những như trên kia mà thôi.
Có nhà làm sử đã nói rằng: Người Do Thái hiện nay cầm cả quyền kinh tế của thế gian trong tay họ; vả lại họ chỉ có túi vàng mà thôi, trong cuộc đại chiến tranh mới rồi, ai mất chi thì mất, chết mấy thì chết, còn họ không bị hại gì cả, mà cái túi vàng của họ nhơn đó càng nặng thêm. Nhơn vì không bị tổn hao và sự sanh hoạt được sung túc, cho nên người họ sanh sản ra đông lắm và mau lắm.
Nhà sử gia ấy nói như vậy rồi kết luận rằng số dân Do Thái hiện thời đây có lẽ lên đến hơn hai mươi triệu chớ chẳng chơi. Như vậy là suýt soát với số dân An Nam ta rồi.
Vì sao dân Do Thái lan ở các nước
Trong đoạn nầy chúng tôi không dám nhận làm một đoạn nghiên cứu lịch sử Do Thái, chỉ nói qua cho biết mà thôi.
Dân tộc Do Thái vốn ở đất Palestine, về miền Tiểu Á Tế Á (*), đất ấy sau cơn chiến tranh 1914-1918 thuộc về nước Anh cai trị.
Theo sách Cựu ước (Ancien Testament) thì dân Do Thái là "tuyển dân" của Đức Chúa Trời (peuple élu) nghĩa là một dân tộc được Chúa Trời lựa chọn.
Nguyên hồi đầu dân tộc ấy mới phát sanh ra, họ đã thờ phượng một mình Đức Chúa Trời mà thôi, tức gọi là Nhứt thần giáo (Monothéisme). Bởi vậy, phàm sự gì thuộc về vận mạng của dân tộc họ, họ đều tin cậy ở ý chỉ Đức Chúa Trời.
Dân Do Thái đầu hết ở đất Mésopotamie, sau dời đến Palestine, rồi lại lưu ngụ ở nước Ai Cập. Ở đó, họ bị người Ai Cập ngược đãi đến ba bốn trăm năm. Vào khoảng trước giáng sanh 1320 năm, giữa họ nổi lên một bậc thánh triết gọi là ông Moise, tự xưng là vâng lịnh Đức Chúa Trời, đem hết thảy dân Do Thái ở Ai Cập trở về đất Palestine.
Từ đó, người Do Thái chinh phục các dân tộc khác ở chung quanh mình và tự lập thành một nước. Trong nước họ bấy giờ không lập vua, công cử lên một vị gọi là Thầy tế lễ cả để cai trị, cầm cả quyền chánh trị và tôn giáo. Sự cai trị thì lại cứ tuân theo giới mạng và luật pháp của Đức Chúa Trời mà đã do ông Moise truyền lại cho.
Đến năm trước giáng sanh 1055, người Do Thái mới bắt đầu lập vua. Có ông vua danh tiếng nhứt là vua David, bắt đầu đóng đô tại Jérusalem. Song đến con là vua Salomon nối ngôi thì lại xa xỉ và chuyên chế quá, làm cho dân không chịu nổi. Trước giáng sanh 953 năm, vua Salomon thăng hà thì trong nước nổ loạn, chia ra làm hai nước: phía nam gọi là Do Thái,(1) phía bắc gọi là Israel.
Từ đó về sau, dân tộc Do Thái càng ngày càng yếu, cho đến năm trước giáng sanh 722 và 588 tức là thời kỳ La Mã đương hưng thạnh, thì Do Thái và Israel nối nhau bị La Mã chinh phục và mất nước.
Phần nhiều dân Do Thái bị ngược đãi trong xứ ở mình thì bỏ mà đi ra ở ngoại quốc từ lúc đó cho đến bây giờ. Trong đất Palestine hiện ngày nay, chỉ còn một số ít người Do Thái còn ở lại đó mà thôi.
Cũng thì là dân mất nước, song dân Do Thái có một điều đặc biệt hơn các dân mất nước khác. Sự ấy chúng ta cần nên biết, vì nó đã làm cho cái lịch sử vong quốc của họ trở nên vẻ vang. ấy là từ đó đến giờ, mỗi năm nhằm ngày kỷ niệm mất nước của họ thì bao nhiêu người Do Thái còn ở lại trong đất Palestine, bất luận già trẻ trai gái, đều về cả tại thành Jérusalem, ôm lấy tường thành mà khóc.
Theo sách Cựu ước thì những sự dời chỗ ở, lập vua, mất nước, tản ở ngoại quốc của dân Do Thái vừa kể trên kia đều do ở ý chỉ tiền định của Đức Chúa Trời.
Muốn rõ cả mọi điều đó thì phải đọc cả bộ Cựu ước. Ở đây chúng tôi chỉ nói sơ một điều quan hệ mà thôi.
Các đấng tiên tri trong dân Do Thái, ở trước Jésus Christ một vài ngàn năm hoặc năm ba trăm năm, đều có nói tiên tri và chép những lời mình vào sách mà rằng: "Sau nầy Đức Chúa Trời sẽ sai xuống cho dân Do Thái một đấng gọi là Messie (tức Christ, nghĩa là cứu thế), song dân Do Thái không tin theo, thì Chúa sẽ phạt cho, làm cho bị dân khác chinh phục mà mất nước, và phải tan lạc đi ở đậu các nước trong thế giới."
Đến chừng Jésus Christ (người Do Thái dòng vua David) ra đời, xưng mình là đấng Messie bởi Đức Chúa Trời sai xuống, song phần nhiều dân Do Thái không tin theo người. Trong lúc ấy chính là lúc dân Do Thái bị ngược đãi và bắt đầu lưu tán, cho nên người ta nói rằng lời tiên tri ấy đã được ứng nghiệm. Dầu vậy mặc lòng, cho đến ngày nay, phần đông người Do Thái cũng không chịu tin theo Jesus Christ mà vẫn cứ còn đợi đấng Messie.
Nhơn đó cũng nên nói qua về tôn giáo của dân Do Thái. Tôn giáo của họ gọi là "Do Thái giáo" (Israélisme), theo luật pháp ông Moise tin một Đức Chúa Trời, mà không tin Jésus Christ; nhận sách Cựu ước điển mà không nhận sách Tân ước của môn đồ Jésus Christ làm kinh viết ra.
Cái đặc tánh của người Do Thái
Trong bài trước đã nói người Do Thái là "tuyển dân" (peuple élu) của Đức Chúa Trời và tôn giáo của họ ra làm sao, vì vậy mà họ có những tánh chất đặc biệt không giống như các dân tộc khác.
Họ có những tánh tín ngưỡng, tự phụ, đoàn kết, và nhẫn nại.
Thật không có dân tộc nào trong thế gian nầy có cái đức tin cho mạnh bằng người Do Thái. Hiện bây giờ người họ ở khắp các nước, mà ở nước nào thì nhập tịch nước ấy song chẳng hề chịu ảnh hưởng của văn hóa nước ấy chút nào. Bao nhiêu những sự thuộc về tôn giáo, chánh trị, pháp luật, vệ sanh, cả đến những của gì đáng ăn, của gì không đáng ăn nữa, họ cũng đều tuân theo lời trong sách Cựu ước mà Đức Chúa Trời đã phán truyền cho họ.
Vì trong Cựu ước có nói tiên tri rằng dầu Đức Chúa Trời phạt dân Do Thái mà ghét bỏ họ trong một thời lâu, song về sau ngài sẽ đoái thương đến họ, dắt đem trở về đất cũ, hầu để lập quốc lại và trở nên vẻ vang hơn các dân tộc khác; cho nên người Do Thái tin đó mà sanh ra lòng tự phụ kiêu căng. Họ nhận Đức Chúa Trời là chúa riêng của mình, còn mình là con riêng Đức Chúa Trời, mỗi khi nhớ đến ông Abraham, ông Isaac, ông Jacob ngày xưa(2) đã nhờ ơn Chúa thế nào, thì lại tin rằng lời hứa ấy rồi đây sẽ ứng nghiệm trong kỳ nó. Bởi vậy, người Do Thái dầu ngày nay đương ở trong cái cảnh lưu ly cực nhục, song chẳng những không nguội lòng thì chớ, mà lại còn sanh ra cái dã tâm muốn thống nhứt thế giới nữa kia. Thử xem một đoạn trong sách Tư tưởng chiến thắng và người Do Thái của ông bác sĩ Penthatull, người Do Thái, xuất bản năm 1923 tại nước Autriche, thì đủ biết cái lòng tự phụ của họ là thế nào. Đoạn ấy như vầy:
"Người Do Thái chúng tôi không có thành kiến chút nào; đối với mọi sự vật trên đất, chúng tôi xem xét rất rõ ràng; chúng tôi thường dám có cái tinh thần mà người khác không dám có.
"Bởi có cái tinh thần ấy, cho nên, dầu ở trong các nước Âu Mỹ, không tấn tới được mấy chút, song giá ở trong một hòn cù lao nào thì chẳng qua trong 50 năm, chúng tôi sẽ làm chủ nhơn trong cù lao ấy. Trong thế giới không cứ việc gì cũng phải cần đến chúng tôi(**), vì mọi nơi dưới biển trên bờ đều có dấu chơn con nhà Do Thái. Con nhà Do Thái chúng tôi đã lanh lẹ lại siêng năng, cái chỗ mục đích kia một ngày chưa đạt đến thì chúng tôi còn chưa biết mỏi mệt..."
Nói về cái tánh đoàn kết của họ thì thật không có dân tộc nào bì được. Những dân tộc có lãnh thổ, có chánh phủ đã thành ra quốc gia rồi mà biết đoàn kết với nhau thì có lạ gì. Cái nầy người Do Thái bị tan lạc, bị xua đuổi, ở không yên ổn, rày đó mai đây, mà giữa họ nghiễm nhiên có một cái đoàn thể bền chặt và thiêng liêng, như vậy mới là đáng quý.
Kể từ năm trước giáng sanh 70 năm, thành Jérusalem bị hủy phá, cho đến năm 135, khoảng đó là khoảng người Do Thái bị tan lạc. Bấy giờ một mớ thì chạy về các nước phương Tây như I-ta-ly, Y-pha-nho; một mớ thì chạy về các nước phương Đông như Syrie, Perse; còn một số ít người ở lại trong đất Palestine thì đổi họ và không dám ra mặt.
Trong lúc ấy những người Do Thái chạy sang phương Tây còn được phục tùng một vị chủ giáo của mình, song cũng phải tùy theo hoàng đế La Mã, khi nới cho thì được, khi cấm đi thì thôi. Cái cơ quan khi chùng khi sáng ấy tồn tại được hơn 400 năm, về sau phải tiêu diệt và trên lịch sử không thấy nói đến vị chủ giáo của dân Do Thái nữa.
Những người Do Thái chạy sang phương Đông thì tôn dòng dõi vua David nối nhau làm vua mình, gọi là "vua trốn" ở tại thành Ba-bi-lon. Các ông vua trốn đó cũng còn được cai trị dân mình và liên lạc cùng vị chủ giáo phương Tây nữa. Đến năm 1005, giáo chủ đạo Hồi Hồi coi người Do Thái là cừu địch cầm tù vua trốn là Ezéctias và giết đi lại đuổi hết thảy người Do Thái phải dời đi nơi khác, từ đó về sau họ không có chánh phủ ở ngoại quốc nữa.
Cũng từ đó người Do Thái tan lạc càng rộng ra, lần lần xuống á châu, sang Mỹ châu, không những ở Âu châu mà thôi, cho đến bây giờ thì khắp trên mặt đất đâu đâu cũng có họ.
ở tan tác như vậy thì làm thế nào mà đoàn kết với nhau? Người ta nói rằng người Do Thái có một thứ chánh phủ kín. Có người đã tìm ra hai bức thơ của họ gởi cho nhau về hồi thế kỷ thứ 15 mà đoán rằng họ phải có cái cơ quan bí mật ấy.
Muốn cho thứ chánh phủ kín ấy tồn tại luôn, khỏi bị người phát giác ra, thì phải dùng những cái thủ đoạn rất thần bí rất cẩn thận mới được. Lại muốn cho cái chánh phủ ấy không tỏ ra, đối với đoàn thể Do Thái không có sự liên thuộc về giai cấp, như vậy mà lại giữ cho đoàn thể được vững bền, chủng tộc được thuần khiết, sự tín ngưỡng được chuyên nhứt, khỏi bị đồng hóa với người ngoài, thiệt là khó thay, e chỉ có một mình dân tộc Do Thái mới có cái ý chí lạ lùng như vậy.
Đến thế kỷ thứ 19 và sau, nghĩa là từ hồi Pháp quốc Cách mạng phát biểu lời "Nhân quyền tuyên ngôn", người Do Thái mới bắt đầu được giải phóng. Năm 1860 ông Adolphe Crémieux lập ra một hội gọi là "Hội liên hiệp người Do Thái trong thế giới", từ đó giữa đoàn thể Do Thái mới có được một cơ quan chánh thức, rồi các cơ quan khác càng thành lập nhiều thêm cho đến ngày nay.
Xem cả lịch sử người Do Thái từ hồi mất nước đến giờ, bị giết hại bị xua đuổi không biết mấy nơi, không biết mấy lần, mà chẳng hề nao núng, tấn thủ lại càng hăng như vậy thì biết cái tánh nhẫn nại của họ là dường nào. Cái tánh ấy, mà cả đến cái tánh khác của họ nữa cũng đều bởi nơi tôn giáo của họ mà ra.
Số tới, chúng tôi sẽ nói tiếp thế lực hiện thời của người Do Thái ở các nước và các nước đối với họ ra làm sao.
Thế lực người Do Thái trong thế giới
Trong mấy đoạn trước đã nói rằng người DoThái ở khắp các nước trong thế gian, bởi vậy, nếu họ không có thế lực gì thì thôi, bằng đã có, thì cái thế lực ấy thật là bao la cả trên mặt đất.
Một điều lạ nữa, là trong sách Cựu ước có nói tiên tri rằng người Do Thái về sau sẽ bị tan lạc, song được giàu có, thì quả như vậy, dân Do Thái bây giờ giàu hơn hết cả các dân khác. Cái thế lực của họ là ở đó.
Như ông Loewenstein mới rồi chết vì té máy bay mà bổn báo đã nói đến hôm nọ, là một người giàu nhứt trong ba nhà triệu phú ở thế gian.
Họ có nhiều tiền rồi, lại có người nữa. Nhơn tài của Do Thái không mặt nào là không có. Về kinh tế, về chánh trị, về văn học, về kỹ nghệ, bất kỳ phương diện nào, trong dân Do Thái cũng đều có người nổi tiếng về phương diện ấy.
Bởi vậy, bao nhiêu những ngân hàng lớn ở các nước phần nhiều là tiền của người Do Thái bỏ ra, cái đó đã đành rồi, mà cho đến các chức vụ trọng yếu trong ngân hàng cũng về tay họ nữa.
Họ đã cầm cả quyền tài chánh của thế giới vào trong tay, rồi thì các cuộc thiệt nghiệp(***) lớn, như là mỏ sắt, mỏ dầu, cũng đều có người họ làm giám đốc. Rồi đến quyền ngôn luận, là như các nhà báo lớn, các sở thông tin, họ cũng xen vào. Thậm chí như ông Jaurès ở nước Pháp lập ra báo L'humanité, là báo binh vực cho công lý nhân đạo, có tiếng ở thế giới ngày nay, mà người ta nói rằng, lúc mới sáng lập ra, cũng có một vài nhà tư bổn Do Thái bỏ tiền vào giúp. Lại như các giáo viên trong các trường đại học bên nước Pháp hiện bây giờ, cũng có một phần đông là người Do Thái, điều đó đã có nhiều người Pháp lấy làm khó chịu.
Cái thế lực Do Thái ở nước Pháp đã là mấy, ở nước Mỹ mới ghê cho. Nước Mỹ có tiếng là một nước rất giàu, song cũng có thể nói rằng cái giàu ấy là của người Do Thái, vì các cơ quan về tiền bạc, phần nhiều bị họ chiếm hết. Coi như hồi cuối thế kỷ thứ 17, chánh phủ New York có một lần ra lịnh đuổi người Do Thái ở đó đi, rồi có những người Do Thái giàu, có nhiều phần hùn trong các công ty thực dân, rập nhau nổi lên phản đối, làm cho chánh phủ phải tiêu hủy cái lịnh ấy. Hồi đó mà họ đã có thế lực như vậy rồi, huống chi là bây giờ; ở nước Mỹ mà còn như vậy, huống chi là các nước khác.
Nói đến nước Tàu, các đô thành lớn của nước ấy mà có dấu chơn người Do Thái chỉ độ trong khoảng vài trăm năm nay, song cái thế lực ngầm ngấm của họ cũng chẳng vừa. Một người Tàu làm sách có nói rằng: "Nước Trung Hoa mỗi một năm mất cho ngoại quốc phỏng độ 12 triệu đồng bạc (nghĩa là tiền trả lời các món công trái), trong một số tiền lớn ấy, các nước khác chỉ hưởng được phần ít, còn người Do Thái thì hưởng được phần nhiều."
Tóm lại, cái thế lực của người Do Thái đáng ghê nhứt là cái thế lực ở trong các ngân hàng. Cái thế lực trong ngân hàng có thể chỉ huy được các chánh phủ của các nước. Giả như một nước nào muốn vay một món tiền to của ngân hàng lớn nào đó, thì cái quyền muốn hỏi vay về làm chi và cho vay hay không, cũng lại ở trong tay "quân Giu-dêu" nầy. Xem bề ngoài thì cái thế lực ấy tưởng không lấy gì làm quan hệ lắm, song xét kỹ ra thì thật là đáng khiếp. Bởi vì, như người ta nói, có tiền thì tiên hay múa, nếu họ đem lòng hiểm độc bắt ngặt các chánh phủ rồi xoay qua đường khác để làm lợi cho họ, lại không có thể được hay sao? Cho đến đảng Cách mạng nào, đảng Cộng sản nào mà đã túng tiền phải vay của họ thì tất nhiên là khó mà thoát ra ngoài vòng thế lực của họ được.
Nhờ tiền bạc, nhơn tài, và tấm lòng đoàn kết của người Do Thái, nên hiện nay dầu họ chưa khôi phục hẳn được tổ quốc mình, song sự ấy cũng đã rõ manh mối ra một ít. Vì mấy lần Vạn quốc hội nghị vừa rồi, nhơn người Do Thái thỉnh cầu, đều có đem việc ấy ra bàn, và nghe như trong đất Palestine ngày nay, tuy về người Anh đại lý, song đã có một bộ phận thuộc về quyền người Do Thái ở đó.
Có điều nầy ta nên biết, là về phần người Do Thái, họ tin ở lời hứa trong Cựu ước, cho nên họ quyết rằng thế nào rồi họ cũng sẽ về mà lập quốc lại trong đất Palestine. 
Các nước đối với người Do Thái - "Họa Do Thái "
Người Do Thái đã có cái thế lực lớn như đã nói trên kia, thì có khó gì mà chẳng vận động cho mình trở về cố quốc, chi đến nỗi ở gởi nằm nhờ đất người ta lâu như vậy? Đó là một vấn đề rất phiền phức về quốc tế, chúng tôi không đủ học thức mà giải minh được, chỉ nói đại lược mà thôi.
Có lẽ cũng vì cái thế lực của Do Thái to quá, làm cho các nước lấy làm lo mà còn dùng dằng chưa dám cho họ trở về cố hương. Vì nghĩ rằng trong khi họ vong gia thất thổ mà còn lừng lẫy thế này, huống chi là khi đã có một miếng đất làm nơi căn cứ.
Trong một đoạn trước đã nói rằng người Do Thái có cái dã tâm muốn thống nhứt thế giới, mà cái dã tâm ấy là sanh ra bởi tôn giáo của họ. Thật thế, đã lâu nay người Do Thái rắp toan cậy cái thế lực của mình mà thiệt hành mọi việc để cho ứng nghiệm những lời đã hứa trong Cựu ước, tức là "sẽ được trở về đất cũ và trở nên một dân làm chủ các dân". Bởi tôn giáo họ xui cho họ có lòng hy vọng lớn lao, có tánh kiêu căng lạ thường, cho nên bây giờ, cái chữ "Do Thái giáo", người ta không coi là tôn giáo nữa, mà coi như là một chủ nghĩa: khi nói đến chữ "Israélisme", tức là có bao hàm cái nghĩa xâm lược, áp bách ở trong, cũng gần gần như khi nói đến chữ "Impérialisme" là "đế quốc chủ nghĩa" vậy.
Vì vậy, các nước bên Âu-Mỹ, bất luận nước lớn hay nhỏ, đối với người Do Thái đều có một tâm lý như nhau: một đường thì ghét dơ, một đường thì lo ngại. Cách hơn trăm năm về trước, người Do Thái đến đâu thì bị xua đuổi đến đó, vả lại còn bị người ta khinh rẻ đến điều, ba chữ "người Do Thái " đã thành ra một câu dùng để mắng trong các nước. (Tức như trong tiếng Pháp khi nào mắng ai mà dùng đến tiếng "C'est un Juif" thế là mắng độc lắm, còn hơn ta nói "đồ Mọi đồ Hời" nữa.) Mà sở dĩ người ta ghét dơ quá như vậy, lại là vì họ cho người Do Thái là tham lam, gian ác và nhứt là hay cho vay ăn lời.
Cái lòng ghét dơ ấy bây giờ lại đổi ra lo ngại. Lo ngại vì cái thế lực và cái dã tâm của Do Thái. Đã lâu nay mấy chữ "Cái vấn đề Do Thái" (Le problème Juif) thường thấy ra trong báo chương sách vở của các nước luôn luôn, hình như họ muốn hiệp cả trí khôn của loài người lại để giải quyết vấn đề ấy mà đến nay cũng còn chưa có phương giải quyết.
Trong khi chưa có phương pháp nào giải quyết được vấn đề Do Thái đó, thì người ta bất giác hốt hoảng kêu lên rằng: "Họa Do Thái! Họa Do Thái!" (Péril Juif).
"Họa Do Thái!" tiếng kêu ấy cũng như tiếng kêu "Họa da vàng!" (Péril jaune), nghĩa là sợ người Do Thái hoặc giả rồi đây sẽ cậy thế lực kim tiền mà thống nhứt thế giới được chăng, cũng như người ta lo cho Nhựt Bổn hoặc Tàu là giống da vàng, rồi đây hoặc sẽ đứng phắt dậy mà làm lôi thôi cho giống da trắng vậy.
Thật vậy, giống Do Thái là giống rất nguy hiểm; người ta sợ rằng hoặc giả rồi đây họ sẽ hiệp hết thảy đồng bào tan lạc lại cùng nhau choán cả tiền bạc trong thế giới, nhơn đó mà mở buộc quyền tài chánh của các nước, làm quân sư cho đám thợ thuyền các nước, rồi có thể xoay cái quyền Vạn quốc hội nghị vào trong tay mình, như thế há chẳng nguy cho các dân tộc khác hay sao? ấy vậy, hiện nay liệt cường đương lo mà giải quyết cái vấn đề Do Thái là phải lắm, vì nó là cần kíp lắm.
Có nhiều người biết chuyện nghĩ đến hiện tình thế giới mà bật cười. Số là hết thảy các dân tộc bị áp bách ngày nay, số người phỏng là 200 triệu rưỡi, trong số ấy người Do Thái chiếm hết một phần mười hai (1/12); thế mà một phần mười hai số người bị áp bách ấy trở lại làm cho các dân tộc áp bách phải lo ngay ngáy như có cái tai vạ gì lớn hầu đến cho mình mà không biết khi nào. Rút lại, ta chỉ có thể đoán ước chừng rằng nếu trong vũ trụ này mà quả có Đức Chúa Trời, và nếu Đức Chúa Trời quả là chúa riêng của dân Do Thái, thì cái vấn đề Do Thái thật cũng khó lòng lấy trí lực loài người mà giải quyết được vậy.
y thế mà, hiện thời nay, trừ An Nam ta ra không kể, còn các nước, không nước nào là không kiếm cách để ngăn ngừa cái họa Do Thái về sau; cho đến nước Tàu, có người đã lo đến rằng phải gấp gấp thiệt hành cái chủ nghĩa Tam dân để có chống cự lại với chủ nghĩa Do Thái, tức là chủ nghĩa Đế quốc mà biến hình ra vậy.
                                                                                                                                 C.D.
                                                                                           Đông Pháp thời báo, Sài Gòn,    
                                                             s.756 (14.8.1928), s.757 (18.8.1928), s.761 (28.8.1928)
----------------
(1) Chữ "Do Thái" nầy là tên nước, theo tiếng Pháp là Juda, khác với chữ "người Do Thái", theo tiếng Pháp là Juifs và trong sách đạo hay gọi là "quân Giu-dêu" (nguyên chú của PK);
(2) Abraham, Isaac, Jacob: ba ông nầy là tổ tiên người Do Thái (nguyên chú của PK).
* Á-tế-á (âm Hán-Việt) = Asia =(châu) Á;
**theo diễn đạt ngày nay, ý khẳng định này lẽ ra được viết là "…bất cứ việc gì cũng phải cần đến chúng tôi… "
*** thiệt nghiệp: như « thực nghiệp ».